Luật sư Nguyễn Mạnh Tuấn

Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản cấu thành tội khi nào?

Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là hành vi đã có từ rất lâu, gây ảnh hưởng đến tài sản của người sở hữu cũng như nền kinh tế, ổn định xã hội. Dấu hiệu cấu thành tội phạm làm sáng tỏ bản chất pháp lý của tội phạm từ đó đưa ra cơ sở pháp lý cho việc định tội và truy cứu trách nhiệm hình sự. Vậy khi nào thì cấu thành tội lam dụng chiếm đoạt tài sản?

Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy định cụ thể về hành vi vi phạm, lỗi, khung hình phạt và các quy định khác liên quan đến hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

Nếu bạn đang có những vướng mắc liên quan đến hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và cần được giải đáp cụ thể, bạn có thể liên hệ với Luật Minh Gia để được tư vấn.

Ngoài ra bạn có thể tham khảo thêm về phân tích của chúng tôi tư vấn sau đây để có thêm kiến thức pháp lý trong lĩnh vực này.

1. Cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản quy định thế nào?

Cũng giống như bất kỳ tội phạm khác, tội lạm dụng chiếm đoạt tài sản được cấu thành bởi 4 yếu tố: Khách thể, mặt khách quan, chủ thể, mặt chủ quan.

Thứ nhất, về mặt khách thể. Khách thể của tội lạm dụng chiếm đoạt tài sản là quyền sở hữu. Hành vi gây thiệt hại cho các quan hệ sở hữu là hành vi xâm phạm đến các quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu. Người phạm tội tác động đến tài sản, tài sản phải được thể hiện dưới dạng vật chất, có giá trị hoặc giá trị sử dụng.

Thứ hai, về chủ thể. Đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, chủ thể là người có đủ cả năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi theo luật định. Người có năng lực trách nhiệm hình sự là người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có khả năng nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội về hành vi này và có khả năng tự điều kiểu được hành vi. Đạt độ tuổi nhất định được quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự năm 2015. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi hành vi phạm tội tại Điều 175 tội làm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Người từ đủ 14 tuổi đến 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về các hành vi phạm tội tại Điều 175.

Thứ ba, về mặt khách quan. Hành vi khách quan của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản mang ba đặc điểm gồm: hành vi gây thiệt hại về vật chất cho chủ sở hữu, nguy hiểm cho xã hội; hành vi đã được tính toán cân nhắc là hành động có ý thức và có ý chí của chủ thể. Người phạm tội đã nhận được tài sản một cách hợp pháp, căn cứ của việc nhận tài sản là hợp đồng dân sự hoặc thương mại như hợp đồng vay, mượn, thuê…

“a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả;” (Điểm a Khoản 1 Điều 175 Bộ luật hình sự 2015)

Giao dịch này là hợp pháp, các bên thực hiện thỏa thuận ý chí tự nguyện. Tuy nhiên, sau khi có được tài sản trong tay người phạm tội mới có hành vi chiếm đoạt tài sản được giao. Có thể là tiếp tục chiếm giữ không chịu trả, tự ý sử dụng, định đoạt vượt quá thỏa thuận trong hợp đồng. Tội phạm sau đó có hành vi như gian dối, bỏ trốn, đến thời hạn trả có đủ điều kiện trả nhưng cố tình không trả lại hoặc sử dụng vào mục đích không theo cam kết.

Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là tội có cấu thành vật chất, được hiểu là hậu quả gây thiệt hại về tài sản do hành vi gây ra là dấu hiệu bắt buộc. Hậu quả này được phản ánh gián tiếp thông qua đối tượng tác động của tội phạm là tài sản. “Chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội này”. Như vậy, chỉ xử lý hình sự nếu tài sản chiếm đoạt từ 4 triệu đồng hoặc dưới 4 triệu nhưng đã bị xử phạt hành chính hoặc đã bị kết án về tội xâm phạm quyền sở hữu, căn cứ được quy định tại Khoản 1 Điều 175.

Thứ tư, về mặt chủ quan. Mặt chủ quan của tội phạm được thực hiện dưới hình thức lỗi cố ý trực tiếp, mục đích tư lợi. Người phạm tội tự nhận thức hành vi của bản thân là trái với pháp luật, lợi dụng lòng tin của người khác để thực hiện mục đích nhằm chiếm đoạt tài sản.

Bốn yếu tố cấu thành tội phạm của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, đó là cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình sự và định tội danh.

Đối với người phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản hình phạt nhẹ nhất có thể bị phạt cải tạo không giam giữ 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm. Hình phạt tù cao nhất có thể lên đến 20 năm. Ngoài ra kèm theo hình phạt bổ sung như bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề, tịch thu 1 phần hoặc toàn bộ tài sản.

lam-dung-tin-nhiem-chiem-doat-tai-san-jpg-23032013010413-U1.jpg

Hỏi về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

2. Luật sư tư vấn tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Câu hỏi:

Chào luật sư, tôi muốn hỏi tạm gọi như sau ah, A cán bộ vay tiền của B là người dân hai trăm triệu. Khi vay A viết giấy vay nợ về cất nhà, cam kết 3 tháng sau sẽ trả cả gốc và lãi. Sau 03 tháng A không trả, B đòi nhiều lần, A trả B 10 triệu. Đến nay là 4 năm A không trả thêm B đồng nào. B khởi kiện ra tòa. Hỏi A có phạm tội chiếm đạt tài sản không? trường hợp này A phải chịu trách nhiệm gì? Xin cảm ơn luật sư.

Trả lời:

Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi yêu cầu tới công ty Luật Minh Gia! Chúng tôi xin tư vấn yêu cầu của bạn như sau:

Điều 175 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) quy định về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản như sau:

“1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả;

b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.

…”

Theo thông tin bạn cung cấp, bên B đã liên hệ nhiều lần đề nghị bên A trả nợ nhưng đến nay đã 04 năm, bên A mới trả được 10 triệu đồng. Do đó, xét thấy bên A có dấu hiệu của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Bên B có thể liên hệ với cơ quan công an địa phương đề nghị xem xét trách nhiệm hình sự trong trường hợp này. Nếu sau khi xem xét, xét thấy không đủ yếu tố cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thì phía B có thể khởi kiện đến Tòa án nhân dân để yêu cầu bên A thực hiện trả nợ.

Điều 466 Bộ luật dân sự 2015 quy định về nghĩa vụ trả nợ của bên vay như sau:

“1. Bên vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn; nếu tài sản là vật thì phải trả vật cùng loại đúng số lượng, chất lượng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

2. Trường hợp bên vay không thể trả vật thì có thể trả bằng tiền theo trị giá của vật đã vay tại địa điểm và thời điểm trả nợ, nếu được bên cho vay đồng ý.

3. Địa điểm trả nợ là nơi cư trú hoặc nơi đặt trụ sở của bên cho vay, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

4. Trường hợp vay không có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả nợ hoặc trả không đầy đủ thì bên cho vay có quyền yêu cầu trả tiền lãi với mức lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này trên số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.

5. Trường hợp vay có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả hoặc trả không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi như sau:

a) Lãi trên nợ gốc theo lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng tương ứng với thời hạn vay mà đến hạn chưa trả; trường hợp chậm trả thì còn phải trả lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này;

b) Lãi trên nợ gốc quá hạn chưa trả bằng 150% lãi suất vay theo hợp đồng tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”

Tới hạn trả nợ mà bên vay không trả, tức đã vi phạm nghĩ vụ trả nợ, hành vi này xâm phạm trực tiếp tới quyền và lợi ích của bên cho vay, tức bên B. Như vậy, bên B có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án cấp huyện giải quyết để bảo vệ quyền lợi của mình. Bên B có quyền và nghĩa vụ cung cấp những tài liệu, bằng chứng để chứng minh yêu cầu của mình là đúng quy định của pháp luật.

---

3. Tham khảo quy định về tội lạm dụng chiếm đoạt tài sản theo luật hình sự 1999

Theo điều 140 Bộ Luật hình sự 1999, sửa đổi bổ sung ngày 19/06/2009 thì Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy định như sau:

1. Người nào có một trong những hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ bốn triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới bốn triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm:

a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó;

b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:

A) Có tổ chức;

B) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;

C) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;

D) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;

Đ) Tái phạm nguy hiểm;

E) Gây hậu quả nghiêm trọng.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

A) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;

B) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:

A) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;

B) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm và bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản hoặc một trong hai hình phạt này.

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

Liên hệ tư vấn
Chat zalo