Triệu Lan Thảo

Chiếm đoạt tài sản của người khác nhưng chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự

Em làm việc tại một khách sạn tới nay được gần 3 tháng. Từ khi nhận việc đến nay em vẫn chưa được ký bất kỳ hợp đồng lao động nào. Và khách sạn có giữ chứng minh nhân dân của em. Thời gian làm việc của em từ 6h tối đến 7h sáng hôm sau với chức vụ là lễ tân.


Tối qua có xảy ra vụ việc em và nhân viên bảo vệ có sự gây lộn với nhau. Nên em thấy bất an nên nghỉ việc lúc đó 2h sáng (tự ý nghỉ việc) trong khi đó em đang giữ tiền của khách sạn là hơn 5 triệu đồng. Em trích 1 phần trong đó là khoản 2 triệu 6 đồng và viết một tờ giấy kèm theo số tiền còn lại (2 triệu 6 là phần lương đã trừ tiền hao hụt tài sản mà em và một cô khách làm mất). Phần còn lại em gửi lại ở quầy lễ tân gửi đến chủ khách sạn. Chứng minh thư em vẫn chưa lấy lại. Như vậy cho em hỏi em có bị vi phạm phát luật về tội trộm cắp không? Qua hôm sau em nghe tin quản lý khách sạn thuê côn đồ tìm em với lý do em đã trộm cắp tiền của khách sạn. Qua được hơn tuần em có nhận được điện thoại đe dọa của chủ khách sạn. Và em thấy trên facebook của em một bạn gái đã đăng tải hình ảnh của em với lời nói khiếm nhẫ như một tên lừa đảo, ăn cắp tiền của chủ rồi bỏ trốn. (Bạn gái đó là em họ của quản lý khách sạn).  Luật sư cho em hỏi, em đã vi phạm vào tội gì và phải chịu trách nhiệm ra sao. Và em có quyền gi? Để bảo vệ mình khi quả lý và chú khách sạn gọi em đã không đến thương lượng. Giờ họ muốn kiện em.
 

Trả lời: Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi cần tư vấn tới Công ty Luật Minh Gia, với thắc mắc của bạn chúng tôi tư vấn như sau:

 

Thứ nhất, về tội trộm cắp tài sản

 

Dấu hiệu nhận biết tội trộm cắp tài sản là có hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác (người chủ sở hữu hoặc ngươi quản lý tài sản). Mà trong trường hợp này bạn lại chính là người đang quản lý số tiền 5 triệu này của công ty. Vì thế việc bạn lấy 2,6 triệu trong số 5 triệu này rồi bỏ trốn thì không cấu thành tội trộm cắp tài sản.

 

Thứ hai, bạn có hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản nhưng chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự

 

Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 175 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 như sau:

 

“1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

 

a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả;

 

b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.

…”

 

Do bạn làm lễ tân trong khách sạn và số tiền 5tr này đang được bạn quản lý. Nhưng chủ sở hữu của số tiền này là ông chủ của bạn. Vì vậy, bạn đã việc bạn lấy 2,6tr trong số 5tr và có hành vi bỏ trốn. Tuy 2,6tr này là tiền phần lương đã trừ tiền hao hụt tài sản mà em và một cô khách làm mất. Nhưng nó vẫn đang là thuộc sở hữu của ông chủ bạn. Vì thế hành vi bỏ trốn với mục đích chiếm đoạt số tiền 2,6tr của bạn đã là hành vi khách quan của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

 

Nhưng bạn chỉ chiếm đoạt 2,6tr <4tr nên bạn vẫn chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

 

Thứ ba, bạn nên ra cơ quan công an trình báo vụ việc của mình để được giải quyết

 

Việc bạn ra cơ quan công an sẽ trình báo sự việc sẽ xác minh được bạn không có mục đích chiếm đoạt tài sản, bằng hợp đồng lao động có thể chứng minh được tiền lương của bạn và số tiền bạn đã lấy không ảnh hưởng tới tài sản cua công ty. Bạn sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi của mình. Vì thế, để an toàn cho bạn, tránh những lời đe dọa, hay những lời nói xấu trên mạng xã hội thì bạn nên ra cơ quan công an trình báo lại vụ việc này. Cơ quan công an sẽ giải quyết cho bạn, đảm bảo an toàn cho bạn.

 

Ngoài ra, tôi đưa ra những hành vi vi phạm pháp luật của ông chủ của bạn trong trường hợp này có thể giúp ích được cho bạn như sau:

 

- Không ký hợp đồng lao động với người lao động.

 

- Giữ giấy tờ gốc của người lao động.

 

- Người lao động phải làm việc 13h/ngày.

 

- Có những hành vi đe dọa đối với bạn.

 

Trân trọng!
CV. Ngô Văn Minh – Công ty Luật Minh Gia.

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

Liên hệ tư vấn
Chat zalo