Pháp lệnh là gì? Pháp lệnh do cơ quan nào ban hành?
Mục lục bài viết
1. Pháp lệnh là gì?
Thông thường khi nghiên cứu pháp luật, chúng ta thường quen với những khái niệm, quy định của Bộ luật, Luật, Nghị định, Thông tư, Quyết định,... do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành. Tuy nhiên, ngoài những văn bản đó còn một loại văn bản vô cùng quan trọng khác là pháp lệnh, theo đó, những vấn đề liên quan đến việc ban hành pháp lệnh được quy định cụ thể trong Hiến pháp 2013 và Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015.
Về định nghĩa, theo khoản 1 điều 16 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 quy định: “Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành pháp lệnh để quy định những vấn đề được Quốc hội giao.”
Cụ thể hơn, khi xem xét những pháp lệnh đã được ban hành và áp dụng trong thực tiễn, có thể hiểu khái niệm pháp lệnh như sau: Pháp lệnh là một loại văn bản quy định về những vấn đề được Quốc hội giao cho Ủy Ban thường vụ Quốc hội ban hành, điều chỉnh những mối quan hệ mới phát sinh trong xã hội, sau một thời gian, nếu xét thấy cần thiết, Uỷ Ban thường vụ Quốc hội sẽ trình Quốc hội xem xét, quyết định ban hành thành luật.
Về mặt giá trị pháp lý, theo điều 4 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015, pháp lệnh là văn bản có giá trị pháp lý cao nhất trong hệ thống các văn bản dưới luật.
2. Pháp lệnh do cơ quan nào ban hành?
Từ định nghĩa pháp lệnh, chúng ta có thể thấy rõ cơ quan có thẩm quyền ban hành loại văn bản này là Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
Tuy nhiên, việc xây dựng pháp lệnh có thể được đề nghị bởi nhiều cơ quan khác nhau. Theo đó, khoản 1 điều 32 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 quy định:
“Điều 32. Đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh của cơ quan, tổ chức
1. Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước, Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và cơ quan trung ương của tổ chức thành viên của Mặt trận có quyền trình dự án luật trước Quốc hội, trình dự án pháp lệnh trước Ủy ban thường vụ Quốc hội thì có quyền đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh.”
Tại điều luật này cũng quy định, các căn cứ để những cơ quan nêu trên tiến hành đề nghị xây dựng pháp lệnh bao gồm:
“2. Đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh phải dựa trên các căn cứ sau đây:
a) Đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước;
b) Kết quả tổng kết thi hành pháp luật hoặc đánh giá thực trạng quan hệ xã hội liên quan đến chính sách của dự án luật, pháp lệnh;
c) Yêu cầu quản lý nhà nước, phát triển kinh tế - xã hội; bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; bảo đảm quốc phòng, an ninh;
d) Cam kết trong điều ước quốc tế có liên quan mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.”
Theo đó, Uỷ ban thường vụ Quốc hội có trách nhiệm xem xét đề nghị xây dựng pháp lệnh sau khi đã được thẩm tra và lập dự kiến chương trình xây dựng pháp lệnh để trình Quốc hội cân nhắc, quyết định. Theo quy định, chương trình xây dựng pháp lệnh được xây dựng hằng năm và được Quốc hội quyết định vào kỳ họp thứ nhất của năm trước.
Pháp lệnh chỉ được thông qua khi có trên nửa tổng số thành viên Ủy ban thường vụ Quốc hội biểu quyết tán thành. Sau thời điểm này, Chủ tịch nước sẽ thực hiện việc công bố pháp lệnh trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày thông qua, trừ trường hợp Chủ tịch nước đề nghị xem xét lại. Khi đó, Chủ tịch nước phải gửi văn bản đến Ủy ban thường vụ Quốc hội yêu cầu xem xét lại trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày thông qua. Ủy ban thường vụ Quốc hội có trách nhiệm xem xét lại những vấn đề mà Chủ tịch nước có ý kiến tại phiên họp gần nhất, đồng thời tiến hành biểu quyết, thông qua lại. Từ thời điểm này, Chủ tịch nước phải công bố pháp lệnh trong thời hạn 15 ngày, trường hợp vẫn không nhất trí thì Chủ tịch nước trình Quốc hội quyết định tại kỳ họp gần nhất.
Ngoài ra, việc ban hành pháp lệnh cũng có thể thực hiện theo thủ tục rút gọn, theo đó, thời hạn để Chủ tịch nước công bố pháp lệnh kể từ ngày thông qua là tối đa 5 ngày.
Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất