Tài khoản ngân hàng đứng tên một người có thể bị yêu cầu chia khi ly hôn?

Mặc dù pháp luật Hôn nhân và Gia đình đã có những quy định cụ thể về chế độ tài sản của vợ, chồng. Nhưng, không phải ai cũng nắm rõ được hết các quy định pháp luật về vấn đề này bởi các quy định pháp luật. Vì vậy, khi ly hôn, rất nhiều cặp vợ, chồng băn khoăn về vấn đề tài sản rằng: Đâu là tài sản chung? Đâu là tài sản riêng? Tài sản đó có phải chia hay không?

1. Tài sản chung và chia tài sản chung khi ly hôn

Để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của mỗi bên vợ, chồng, pháp luật quy định rất chi tiết về vấn đề chia tài sản chung khi ly hôn. Đa số, các cặp vợ chồng đều nghĩ rằng tài sản chung là sự chiếm hữu chung, sự đứng tên chung trên các giấy tờ chứng nhận quyền sử dung, quyền sở hữu đối với tài sản. Tài sản chung của vợ chồng có thể là vật (như vàng, bạc,…); tiền mặt; quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở; … Nhưng hầu hết, các cặp vợ chồng đều gặp những vướng mắc khi tài sản là tài khoản ngân hàng khi chỉ đứng tên một người liệu có phải là tài sản chung. Về bản chất, tài khoản ngân hàng cũng là tiền nhưng không tồn tại dưới dạng tiền mặt mà là tiền tài khoản. Do đó, việc xác định đó có phải là tài sản chung hay không cũng như việc xác định các loại tài sản khác.

Thứ nhất, quy định pháp luật về tài sản chung trong thời kì hôn nhân

Tại Điều 33 Luật hôn nhân và gia đình 2014 có quy định về tài sản chung của vợ chồng như sau:

1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.

Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.

2. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.

3. Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung.”

Theo quy định nêu trên, để xác định tài sản chung của vợ chồng thì cần nhìn vào nguồn gốc hình thành tài sản đó là gì. Các tài sản được tạo lập hoặc có được trong thời kỳ hôn nhân theo hình thức mua, bán, nhận tặng cho chung… đều được xác định là tài sản chung của vợ chồng.

Việc xác định đâu là tài sản chung, đâu là tài sản riêng có ý nghĩa rất quan trọng đặc biệt trong việc xác định nghĩa vụ của vợ, chồng đối với bên thứ ba khi có tranh chấp xảy ra.

Thứ hai, phân chia tài sản chung khi ly hôn

Khoản 1, 2 Điều 59 Luật Hôn nhân và Gia đình quy định về nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn như sau:

Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận thì việc giải quyết tài sản khi ly hôn được áp dụng theo thỏa thuận đó; nếu thỏa thuận không đầy đủ, rõ ràng thì áp dụng quy định tương ứng tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này để giải quyết.

2. Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây:

a) Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;

b) Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;

c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;

d) Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.”

Trong trường hợp ly hôn, việc có tranh chấp liên quan đến phân chia tài sản là không thể tránh khỏi. Về nguyên tắc khi phân chia tài sản chung, pháp luật vẫn ưu tiên sự thỏa thuận của vợ, chồng. Tức nghĩa, khi ly hôn nếu vợ chồng thống nhất được về việc phân chia tài sản thì có thể tự giải quyết hoặc yêu cầu Tòa án công nhận sự thỏa thuận này bằng bản án.

Trong trường hợp các bên không thống nhất được về việc phân chia tài sản, theo yêu cầu của một bên hoặc của các bên Tòa án sẽ phân chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn trên nguyên tắc tài sản riêng của ai thì thuộc về người đó, tài sản chung sẽ chia đôi nhưng có tích đến các yếu tố như:

- Hoàn cảnh gia đình;

- Công sức đóng góp trong quá trình tạo lập, duy trì, phát triển khối tài sản chung;

- Đảm bảo quyền lợi của các bên liên quan đén sản xuất, kinh doanh… để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;

- Các bên có lỗi trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng hay không.

2. Tài khoản ngân hàng đứng tên một người có thể bị yêu cầu chia khi ly hôn?

Câu hỏi đề nghị tư vấn 1: Kính gởi luật sư, Luật sư cho tôi hỏi: Tôi và vợ tôi có một tài khoản riêng, tài khoản này vợ tôi đứng tên. Hằng tháng lương tôi vợ tôi nhận hết, và cô ấy tự gởi ngân hàng vào tài khoản của cô ấy. Cho tôi hỏi: trong trường hợp bất khả kháng vợ tôi không trả lại cho tôi thì tôi có quyền kiện hay đòi lại tiền của tôi đưa cô ấy không. Nhờ luật sư tư vấn.

Trả lời: Cảm ơn anh đã tin tưởng và gửi câu hỏi cần tư vấn tới Công ty Luật Minh Gia, với nội dung anh vướng mắc Luật Minh Gia tư vấn như sau:

Theo quy định tại Điều 33, Điều 43 Luật hôn nhân gia đình 2014 thì có thể hiểu tài sản chung của vợ chồng bao gồm các tài sản được hình thành trong thời kỳ hôn nhân chồng là tài sản được hình thành trong thời kỳ hôn nhân, tài sản do vợ chồng được tặng cho chung, thừa kế chung và các tài sản khác do vợ chồng cùng thỏa thuận là tài sản chung.

Tài sản riêng là các tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn, tài sản được tặng cho riêng, thừa kế riêng trong thời kỳ hôn nhân, tài sản có được sau khi vợ chồng phân chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân.

Theo quy định pháp luật nêu trên và đối chiếu với thông tin anh cung cấp, tiền gửi vào tài khoản là tiền lương của anh trong thời kì hôn nhân của hai người, ngoài ra anh chị không có thỏa thuận đây là tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân, do đó tài sản này được xác định là tài sản chung của vợ chồng. Vợ chồng anh chị có quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt chung đối với số tiền trong tài khoản đứng tên vợ anh. Trong trường hợp anh chị không thỏa thuận được về số tiền này, anh có thể yêu cầu tòa án giải quyết phân chia tài sản dù trong thời kì hôn nhân hoặc khi ly hôn. Trong trường hợp xác định là tài sản chung, anh không thể yêu cầu vợ anh trả lại toàn bộ số tiền trong tài khoản của vợ anh được. Tòa án sẽ dựa trên căn cứ tại Điều 59 Luật hôn nhân và gia đình 2014 để phân chia tài sản cho hai người.

Câu hỏi đề nghị tư vấn 2: Xin chào luật sư! Tôi năm nay 27 tuổi sống tại Vĩnh Phúc. Tôi kết hôn với vợ từ năm 2013 chúng tôi có 1 con gái năm nay được 20 tháng tuổi. Do cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, hay xảy ra tranh cãi và nhiều lần vợ tôi đòi bỏ đi, và cách đây khoảng 6 tháng khi xảy ra mâu thuẫn vợ tôi đã bế con bỏ đi khỏi nhà, hiện tại tôi và vợ tôi cũng đã đồng ý ly hôn, con thì vợ để cho tôi nuôi. Sau khi cưới nhau thì vợ tôi có bầu và đi học liên thông lên đại học sau đó sinh con và nuôi con tới bây giờ chưa đi làm gì. Tôi đi làm trong khoảng thời gian từ khi lấy vợ có một tài khoản tiết kiệm tại ngân hàng là 100tr. Hiện tại vợ tôi ly hôn muốn chia số tiền đó, xin luật sư tư vấn là nếu tôi làm đơn ly hôn đơn phương thì tòa sẽ xử như thế nào, và tôi cần làm gì để có lợi cho mình nhất, vì thực tế giờ tôi là người nuôi con và vợ tôi trong suốt thời gian sau cưới chưa đi làm gì ra tiền cả.xin cảm ơn luật sư!

Trả lời: Cảm ơn anh đã tin tưởng và gửi câu hỏi cần tư vấn tới Công ty Luật Minh Gia, với nội dung anh vướng mắc Luật Minh Gia tư vấn như sau:

Trong trường hợp của anh, khi ly hôn, nếu hai vợ chồng anh không thể thỏa thuận được về việc phân chia tài sản, vợ anh hoặc anh có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết vấn đề này. Theo như thông tin anh cung cấp, số tiền này là tiền mà anh làm ra trong thời kì hôn nhân, vì thế, tài sản này được xác định là tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân. Vì vậy, vợ anh có quyền được hưởng một phần trong số 100 triệu kia. Tòa án sẽ dựa trên những căn cứ tại Điều 59 để phân chia số tiền 100 triệu kia. Để có lợi cho mình nhất, anh cần chuẩn bị những tài liệu để chứng minh rằng:

- Anh là người tạo ra thu nhập cho gia đình, vợ của anh không đi làm, không chăm lo con cái, cuộc sống gia đình và không có thu nhập trong thời kì hôn nhân;

- Số tiền 100 triệu kia hoàn toàn là từ thu nhập của anh;

- Vợ anh có hành vi vi phạm quyền và nghĩa vụ của vợ chồng trong thời kì hôn nhân.

 

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

0971.166.169