Phạm Diệu

Tự ý sa thải người lao động khi không giao kết hợp đồng lao động

Luật sư tư vấn về việc sa thải người lao động khi công ty không giao kết hợp đồng lao động. Nội dung tư vấn như sau:

 

Kính gửi Luật Minh Gia, Tôi xin phép trình bày hoàn cảnh của mình:  Tôi làm việc cho ông Luân và ông Luân có 2 công ty A và B.- CTY A gửi email thư mời làm việc cho tôi với nội dung: thử việc 1 tháng, sau đó làm chính thức. Sau khi thử việc, tôi yêu cầu hợp đồng chính thức, nhưng họ không đưa vì lý do muốn đề bạt tôi lên làm quản lý;- Trong suốt quá trình làm việc, tôi luôn cố gắng hoàn thành công việc.- Đến mùng 4 tháng 5, 1 quản lý gọi điện và gửi email yêu cầu tôi nghỉ việc ngay lập tức. Vì 2 công ty này là cùng 1 chủ, nhân sự không rõ ràng, hợp đồng của ai, thực chất làm cho công ty A hay B tôi không rõ, và tôi chỉ biết người trên trên được giao quyền quản lý và người này thừa lệnh ông Luân sa thải tôi.- Tôi không đồng ý nên đã yêu cầu nếu sa thải thì phải có quyết đinh, và tôi cũng gửi email tỏ rõ việc không đồng ý về email sa thải cho người kể trên. Tất cả mọi người đều biết việc này, và tôi cũng không thể ở lại làm việc sau khi bị sa thải (vì trên giấy tờ là 2 công ty với tên 2 người khác nhau, nhưng thực tế chỉ là 1)- Đến ngày 11 tháng 5, tôi nộp hồ sơ lên Phòng lao động quận để thụ lý. Lần đầu CTY không đi, lần sau tức 22 tháng 5, CTY đi (nhưng không có giấy ủy quyền, nên tôi vẫn được nhận giấy hòa giải bất thành) nhưng bác lại rằng: tôi có hợp đồng với công ty A, nhưng người ở công ty B gửi thư sa thải mà tôi lại phản hồi người này thì họ không có trách nhiệm bồi thường cho tôi, còn tôi đã nghỉ việc trái pháp luật từ ngày 5 tháng 5 đến 22 tháng 5.Ngay tối 22, tôi liền gửi email đến người được gọi là giám đốc của CTY A (thực chất chỉ được thuê để đứng tên chứ không có quyền quản lý, điều hành) về việc tôi không đồng ý nội dung email sa thải và kính mong người này làm rõ sự việc trên với vị trí là GD cty.Tôi định khởi kiện ra Tòa, nhưng việc nhập nhằng trong nhân sự, quản lý của công ty A và công ty B khiến tôi bối rối. Trong trường hợp của tôi, tôi nên giải quyết như thế nào?Kính mong Luật Minh Gia giải đáp.Trân Trọng.

 

Trả lời: Cảm ơn anh đã gửi câu hỏi đề nghị tư vấn đến Công ty Luật Minh Gia, trường hợp của anh chúng tôi tư vấn như sau:

 

Theo quy định tại khoản 1 Điều 18 Bộ luật lao động 2012 về nghĩa vụ giao kết hợp đồng lao động:

 

“Trước khi nhận người lao động vào làm việc, người sử dụng lao động và người lao động phải trực tiếp giao kết hợp đồng lao động.”

 

Căn cứ vào quy định trên, đối với trường hợp của anh làm việc tại công ty nhưng không được công ty kí kết hợp đồng lao động là vi phạm quy định pháp luật.

 

Tại Điều 22 Bộ luật lao động 2012 quy định:

 

“ Điều 22. Loại hợp đồng lao động

 

1. Hợp đồng lao động phải được giao kết theo một trong các loại sau đây:

 

a) Hợp đồng lao động không xác định thời hạn;

 

Hợp đồng lao động không xác định thời hạn là hợp đồng mà trong đó hai bên không xác định thời hạn, thời điểm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng.

 

b) Hợp đồng lao động xác định thời hạn;

 

Hợp đồng lao động xác định thời hạn là hợp đồng mà trong đó hai bên xác định thời hạn, thời điểm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng trong khoảng thời gian từ đủ 12 tháng đến 36 tháng.

 

c) Hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng.

 

2. Khi hợp đồng lao động quy định tại điểm b và điểm c khoản 1 Điều này hết hạn mà người lao động vẫn tiếp tục làm việc thì trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày hợp đồng lao động hết hạn, hai bên phải ký kết hợp đồng lao động mới; nếu không ký kết hợp đồng lao động mới thì hợp đồng đã giao kết theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều này trở thành hợp đồng lao động không xác định thời hạn và hợp đồng đã giao kết theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều này trở thành hợp đồng lao động xác định thời hạn với thời hạn là 24 tháng.

 

Trường hợp hai bên ký kết hợp đồng lao động mới là hợp đồng xác định thời hạn thì cũng chỉ được ký thêm 01 lần, sau đó nếu người lao động vẫn tiếp tục làm việc thì phải ký kết hợp đồng lao động không xác định thời hạn.

 

3. Không được giao kết hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng để làm những công việc có tính chất thường xuyên từ 12 tháng trở lên, trừ trường hợp phải tạm thời thay thế người lao động đi làm nghĩa vụ quân sự, nghỉ theo chế độ thai sản, ốm đau, tai nạn lao động hoặc nghỉ việc có tính chất tạm thời khác”.

 

Theo như anh cho biết công ty A đã gửi thư mời làm việc cho anh với nội dung: thử việc một tháng và sau đó làm chính thức. Căn cứ vào các quy định trên thì công ty có thể giao kết hợp đồng lao động bằng lời nói với thời hạn dưới 3 tháng. Nếu sau khi hết thời hạn 3 tháng mà anh vẫn tiếp tục làm việc tại công ty thì sau thời hạn 30 ngày kể từ ngày hợp đồng lao động được giao kết bằng lời nói hết hạn, công ty không kí hợp đồng mới thì hợp đồng lao động giữa anh và công ty đương nhiên trở thành hợp đồng lao động xác định thời hạn với thời hạn 24 tháng, theo quy định tại khoản 2 Điều 22 Bộ luật lao động 2012:

 

“2. Khi hợp đồng lao động quy định tại điểm b và điểm c khoản 1 Điều này hết hạn mà người lao động vẫn tiếp tục làm việc thì trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày hợp đồng lao động hết hạn, hai bên phải ký kết hợp đồng lao động mới; nếu không ký kết hợp đồng lao động mới thì hợp đồng đã giao kết theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều này trở thành hợp đồng lao động không xác định thời hạn và hợp đồng đã giao kết theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều này trở thành hợp đồng lao động xác định thời hạn với thời hạn là 24 tháng.

…”

 

Anh được biết: 2 công ty này là cùng 1 chủ, nhân sự không rõ ràng, hợp đồng của ai, thực chất làm cho công ty A hay B anh cũng không rõ. Vì vậy, sẽ chia làm 2 trường hợp như sau:

 

- Trường hợp 1: Sa thải vì lí do nghỉ việc trái pháp luật

 

Theo quy định tại khoản 3 Điều 126 Bộ luật lao động 2012 về việc áp dụng hình thức xử lý kỷ luật sa thải trong trường hợp:

 

“3. Người lao động tự ý bỏ việc 05 ngày cộng dồn trong 01 tháng hoặc 20 ngày cộng dồn trong 01 năm mà không có lý do chính đáng.

 

Các trường hợp được coi là có lý do chính đáng bao gồm: thiên tai, hoả hoạn, bản thân, thân nhân bị ốm có xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền và các trường hợp khác được quy định trong nội quy lao động.”

 

Như vậy, anh đã tự ý nghỉ việc trái pháp luật từ ngày 5 tháng 5 đến 22 tháng 5 nên công ty có quyền áp dụng hình thức xử lý kỷ luật sa thải đối với anh.

 

- Trường hợp 2: Sa thải không đúng thẩm quyền

 

Theo như anh cho biết, anh có hợp đồng với công ty A nhưng công ty B gửi thư sa thải anh. Vì vậy, việc công ty B tự ý gửi mail sa thải anh là trái quy định pháp luật. Trong trường hợp này, anh có thể nộp đơn đề nghị gửi Phòng lao động thương binh và xã hội hoặc Tòa án để yêu cầu được giải quyết.

 

Mặt khác, tại Điều 42 Bộ luật lao động 2012 quy định về nghĩa vụ của người sử dụng lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật như sau:

 

- Phải nhận người lao động trở lại làm việc theo hợp đồng lao động đã giao kết và phải trả tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế trong những ngày người lao động không được làm việc cộng với ít nhất 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động.

 

- Trường hợp người lao động không muốn tiếp tục làm việc, thì ngoài khoản tiền bồi thường quy định tại khoản 1 Điều này người sử dụng lao động phải trả trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 48 của Bộ luật này.

 

- Trường hợp người sử dụng lao động không muốn nhận lại người lao động và người lao động đồng ý, thì ngoài khoản tiền bồi thường quy định tại khoản 1 Điều này và trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 48 của Bộ luật này, hai bên thỏa thuận khoản tiền bồi thường thêm nhưng ít nhất phải bằng 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động để chấm dứt hợp đồng lao động.

 

- Trường hợp không còn vị trí, công việc đã giao kết trong hợp đồng lao động mà người lao động vẫn muốn làm việc thì ngoài khoản tiền bồi thường quy định tại khoản 1 Điều này, hai bên thương lượng để sửa đổi, bổ sung hợp đồng lao động.

 

- Trường hợp vi phạm quy định về thời hạn báo trước thì phải bồi thường cho người lao động một khoản tiền tương ứng với tiền lương của người lao động trong những ngày không báo trước.

 

Trên đây là nội dung tư vấn của Luật Minh Gia về vấn đề anh hỏi và quan tâm. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ cần luật sư giải đáp, anh vui lòng gọi đến Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến của chúng tôi - Số điện thoại liên hệ: 1900.6169 để được hỗ trợ kịp thời.

 

Trân trọng.
CV tư vấn: Phạm Thị Diệu - Luật Minh Gia

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

Liên hệ tư vấn
Chat zalo