Luật sư Nguyễn Mạnh Tuấn

Nghỉ việc trong thời gian thử việc có được nhận lương không?

Người sử dụng lao động và người lao động có thể thoả thuận về việc làm thử, quyền, nghĩa vụ của hai bên trong thời gian thử việc. Nếu có thoả thuận về việc làm thử thì các bên có thể giao kết hợp đồng thử việc. Thử việc là sự thỏa thuận của 2 bên nên nếu các bên thỏa thuận về sự thỏa thuận thì sẽ thực hiện, nếu không thỏa thuận thì không phải thực hiện.

1. Luật sư tư vấn về hợp đồng thử việc

Thử việc là hoạt động của người lao động đối với yêu cầu người lao động, cũng như sự hòa nhập của người lao động. Hiện nay, hầu hết các loại hình doanh nghiệp nào cũng có yêu cầu về thử việc đối với người lao động, để đáp ứng được nhu cầu hiện nay, bảo vệ quyền và lợi ích cho chính mình thì người lao động, người sử dụng lao động đều phải nắm rõ các quy định về vấn đề thử việc. Vậy thử việc là gì, thời gian thử việc, quyền và nghĩa vụ trong thời gian thử việc là gì?

Nếu bạn đang gặp phải vướng mắc liên quan đến hợp đồng thử việc, bạn cần tham khảo các quy định pháp luật về lao động hoặc ý kiến của luật sư có chuyên môn. Trong trường hợp bạn không có thời gian tìm hiểu hoặc không có luật sư riêng, bạn hãy liên hệ Luật Minh Gia để chúng tôi giải đáp và hướng dẫn cụ thể.

Ngoài ra, bạn có thể tham khảo thêm tình huống mà Luật Minh Gia tư vấn dưới đây để có thêm kiến thức về pháp luật.

2. Tình huống: Người lao động nghỉ việc trong thời gian thử việc có được nhận lương?

Câu hỏi tư vấn: Chào Luật sư, Em vào công ty TNHH Thiết bị điện CT làm việc được ba tuần có ký thoả thuận lao động thử việc (nhưng chỉ có 1 bản công ty giữ, sau đó em xin công ty nghỉ việc trước 5 ngày, để công ty giải quyết lương. Nhưng phía Công ty nói nếu em làm không đủ ngày công trong tháng mà nghỉ việc, thì sẽ không được thanh toán lương. Còn nếu qua tháng thứ 2 mà nghỉ việc thì phải bồi thường 2 triệu. Trừ khi công ty cho nghỉ thì mới được thanh toán lương.

Thưa luật sư như thế công ty đó làm đúng hay sai và Công ty đang giữ bằng gốc của em nữa. Vậy em phải làm gì thì mới được trả lương và bằng. Mong luật sư tư vấn giúp em.

Rất mong nhận được thư phản hồi sớm của luật sư. Em chân thành cảm ơn.

Trả lời: Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi đề nghị tư vấn đến Công ty Luật Minh Gia, trường hợp của bạn chúng tôi tư vấn như sau:

Điều 26 Bộ luật Lao động 2019 quy định về tiền lương thử việc như sau: 

“Tiền lương của người lao động trong thời gian thử việc do hai bên thỏa thuận nhưng ít nhất phải bằng 85% mức lương của công việc đó.”

Đồng thời, Khoản 2 Điều 27 quy định về việc hủy bỏ hợp đồng thử việc như sau: 

“2. Trong thời gian thử việc, mỗi bên có quyền hủy bỏ hợp đồng thử việc hoặc hợp đồng lao động đã giao kết mà không cần báo trước và không phải bồi thường.” 

Như vậy, trong thời gian thử việc bạn có quyền nghỉ việc bất cứ lúc nào mà không cần báo trước cũng như không phải bồi thường. Đồng thời, khi nghỉ việc bạn vẫn được hưởng lương của những ngày mà bạn đã làm việc cho công ty. 

Còn trong trường hợp sau hai tháng thử việc, thì bạn vẫn có quyền nghỉ việc - đơn phương chấm dứt hợp đồng và trách nhiệm bồi thường chỉ đặt ra khi bạn đơn phương chấm dứt hợp đồng trái luật. 

Bởi lẽ, sau hai tháng thử việc, bạn và công ty sẽ giao kết Hợp đồng lao động (HĐLĐ), nếu thử việc đạt yêu cầu. Trong khi đó, pháp luật cho phép người lao động được đơn phương chấm dứt HĐLĐ nhưng cần tuân thủ quy định tại Điều 35 Bộ luật Lao động 2019 như sau: 

“1. Người lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động nhưng phải báo trước cho người sử dụng lao động như sau:

a) Ít nhất 45 ngày nếu làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn;

b) Ít nhất 30 ngày nếu làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn có thời hạn từ 12 tháng đến 36 tháng;

c) Ít nhất 03 ngày làm việc nếu làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn có thời hạn dưới 12 tháng;

d) Đối với một số ngành, nghề, công việc đặc thù thì thời hạn báo trước được thực hiện theo quy định của Chính phủ.”

Khi đơn phương chấm dứt HĐLĐ mà bạn không thực hiện theo quy định nêu trên thì được xác định là đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái luật. Khi đó, bạn đó bạn không được hưởng trợ cấp thôi việc và phải bồi thường cho công ty - người sử dụng lao động và thực hiện một số nghĩa vụ theo quy định tại Điều 40 Bộ luật Lao động 2019 như sau: 

“1. Không được trợ cấp thôi việc.

2. Phải bồi thường cho người sử dụng lao động nửa tháng tiền lương theo hợp đồng lao động và một khoản tiền tương ứng với tiền lương theo hợp đồng lao động trong những ngày không báo trước.

3. Phải hoàn trả cho người sử dụng lao động chi phí đào tạo quy định tại Điều 62 của Bộ luật này.”

3. Tình huống: Nghỉ việc có phải trả công nợ cho công ty không?

Câu hỏi tư vấn: Lúc trước em có làm cộng tác viên tại một công ty, không ký hợp đồng lao động gì cả với em. Sau khi em nghỉ, mấy đồng nghiệp trong công ty gọi điện cho em bảo em thanh toán công nợ của khách hàng phát sinh là 5 triệu (khách hàng này là người em tiếp nhận khi còn làm việc ở công ty) mà không phải là công ty gọi trực tiếp cho em. Nhưng em đã nghỉ gần 1 năm nay rồi và e bảo lúc em đã gần 1 năm rồi giờ vẫn còn gọi đòi tiền em, giờ em không có tiền vì em là lao động chính trong nhà, lương chỉ đc 6 triệu đủ sống. Họ bảo em không trả họ sẽ báo công an, không biết giờ em phải làm sao, mong luật sư cho e lời khuyên. Em xin cảm ơn

Nội dung tư vấn: Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi cho Luật Minh Gia. Đối với vấn đề mà bạn băn khoăn, chúng tôi tư vấn như sau: 

Do chưa nắm bắt thông tin cụ thể về công việc bạn từng làm ở công ty cũ cũng như thời gian bạn làm việc tại công ty nên chúng tôi chưa thể xác định chính xác quan hệ pháp luật giữa bạn và công ty. Vì vậy, Luật Minh Gia tư vấn hai trường hợp như sau: 

Trường hợp 1: Quan hệ giữa hai bên là quan hệ lao động

Điều 13 Bộ luật Lao động 2019 quy định về khái niệm hợp đồng lao động như sau: 

“1. Hợp đồng lao động là sự thỏa thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động về việc làm có trả công, tiền lương, điều kiện lao động, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trong quan hệ lao động.

Trường hợp hai bên thỏa thuận bằng tên gọi khác nhưng có nội dung thể hiện về việc làm có trả công, tiền lương và sự quản lý, điều hành, giám sát của một bên thì được coi là hợp đồng lao động.

2. Trước khi nhận người lao động vào làm việc thì người sử dụng lao động phải giao kết hợp đồng lao động với người lao động.”

Như vậy, kể cả trong trường hợp công ty không ký HĐLĐ nhưng hai bên có thỏa thuận với những nội dung như trên thì vẫn được xác định là có quan hệ lao động.

Theo thông tin bạn cung cấp, khoản tiền 5 triệu là tiền công nợ (do khách hàng không thanh toán nghĩa vụ) phát sinh trong quá trình bạn thực hiện công việc. Nguyên nhân là do khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ của hợp đồng. 

Đối chiếu theo Khoản 1 Điều 129 Bộ luật Lao động 2019 quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người lao động như sau: 

“1. Người lao động làm hư hỏng dụng cụ, thiết bị hoặc có hành vi khác gây thiệt hại tài sản của người sử dụng lao động thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật hoặc nội quy lao động của người sử dụng lao động.

Trường hợp người lao động gây thiệt hại không nghiêm trọng do sơ suất với giá trị không quá 10 tháng lương tối thiểu vùng do Chính phủ công bố được áp dụng tại nơi người lao động làm việc thì người lao động phải bồi thường nhiều nhất là 03 tháng tiền lương và bị khấu trừ hằng tháng vào lương theo quy định tại khoản 3 Điều 102 của Bộ luật này.”

Theo đó, nếu bạn không có hành vi gian dối để chiếm đoạt số tiền này hoặc vi phạm quy định dẫn đến công ty bị thất thoát số tiền trên thì bạn không có trách nhiệm phải bồi thường. Theo đó, vụ việc này cũng không thuộc thẩm quyền của cơ quan công an. 

Thêm nữa, theo quy định tại Điều 71 Nghị định 145/2020/NĐ-CP thì người sử dụng lao động là người có thẩm quyền xử lý bồi thường thiệt hại. Do đó, việc các đồng nghiệp cũ gọi điện cho bạn để yêu cầu bạn thanh toán số tiền 5 triệu đồng là không có cơ sở và không phù hợp với quy định nêu trên, trừ trường hợp họ được phía công ty ủy quyền/ giao nhiệm vụ. 

Trường hợp 2: Quan hệ hai bên không phải là quan hệ lao động

Nếu các bên không có sự thỏa thuận theo quy định tại Điều 13 Bộ luật Lao động 2019 (nêu trên), quan hệ hai bên được xác định là quan hệ dân sự. Theo đó, trách nhiệm thanh toán số tiền 05 triệu đồng do khách hàng không thanh toán nghĩa vụ phụ thuộc vào thỏa thuận giữa các bên và quy định pháp luật liên quan tùy thuộc loại hợp đồng/ quan hệ dân sự giữa các bên. 

Trân trọng!

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

Liên hệ tư vấn
Chat zalo