Hoàng Tuấn Anh

Thời gian tạm đình chỉ điều tra có được tính vào thời gian truy cứu trách nhiệm hình sự không?

Luật sư tư vấn về trường hợp thứ nhất xác định thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự khi đã có quyết định truy nã và quyết định tạm đình chỉ điều tra vụ án. Trường hợp hai xác định thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự mà chưa xác định được người thực hiện hành vi phạm tội, cơ quan cảnh sát điều tra quyết định tạm đình chỉ điều tra vụ án.

 

Nội dung câu hỏi: 

 

Vấn đề 1. Ngày 15/12/1986, Cơ quan điều tra A ra Quyết định KTVA trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa (đạn, thuốc nổ) theo điều 132 Bộ luật hình sự 1985, QĐ KTBC đối với bị can T và H, đến ngày 05/10/1987, ra quyết định tạm đình chỉ điều tra do hết thời hạn điều tra và 2 bị can đã bỏ trốn. Đến ngày 29/12/2017 thì cơ quan điều tra A bàn giao hồ sơ vụ án cho Cơ quan An ninh điều tra B theo thầm quyền theo quy định của BLHS 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. (Cơ quan điều tra A đã ra lệnh truy nã đối với 2 bị can T và H. Trong QĐ tạm đình chỉ có nêu việc truy nã đối với 2 bị can nêu trên nhưng không thấy có lưu quyết định truy nã trong hồ sơ). Hỏi tính đến thời điểm hiện tại thì còn thời hiệu truy cứu TNHS không? Có ra quyết định truy nã đc k? Áp dụng bộ luật hình sự nào?

 

Vấn đề 2. Vụ án chiếm đọat vũ khí quân dụng xảy ra ra tại xã A- huyện B- tỉnh LC, phát hiện ngày 11/8/2002. Ngày 20/8/2002 CQĐT ra QĐ khởi sự tố VA theo điều 230 khoản 1 BLHS 1999; đến ngày 20/02/2003 thì ra QĐ tạm đình chỉ điều tra vụ án do hết thời hạn điều tra mà chưa xác định được bị can. Hỏi: tính đến thời điểm hiện tại thì có ra quýêt định đình chỉ điều tra vụ án được không? Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với vụ án trên được tính từ ngày nào đến ngày nào?

 

Trả lời tư vấn: Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi đề nghị tư vấn đến Công ty Luật Minh Gia, trường hợp của bạn chúng tôi tư vấn như sau:

 

Vấn đề 1:

 

Thứ nhất, về quyết định truy nã

 

Điều 135 khoản 1 BLTTHS 1988 quy định về Tạm đình chỉ điều tra

 

“1- Khi bị can bị bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo khác có chứng nhận của Hội đồng giám định pháp y thì có thể tạm đình chỉ điều tra trước khi hết hạn điều tra. Trong trường hợp chưa xác định được bị can hoặc không biết rõ bị can đang ở đâu thì tạm đình chỉ điều tra khi đã hết thời hạn điều tra.

 

Nếu không biết bị can đang ở đâu thì cơ quan điều tra phải ra quyết định truy nã trước khi tạm đình chỉ điều tra".

 

Về nguyên tắc, khi 2 bị can bỏ trốn thì trong trường hợp này, cơ quan điều tra nếu không biết bị can đang ở đâu thì cơ quan điều tra phải ra quyết định truy nã trước khi tạm đình chỉ điều tra.

 

Cơ quan điều tra A đã ra quyết định truy nã đối với 2 bị can T và H. Trong quyết định tạm đình chỉ có nêu việc truy nã đối với 2 bị can nhưng không thấy có lưu quyết định truy nã trong hồ sơ. Như vậy, cần rà soát hồ sơ của 2 bị can về quyết định truy nã để bảo đảm về thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được thực hiện phù hợp với quy định của pháp luật.

 

Thứ hai, về thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự

 

Điều 45 khoản 1 BLHS 1985 quy định về Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự

 

“1- Không truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu tính từ ngày tội phạm được thực hiện đã qua những thời hạn sau đây:

 

a) Năm năm đối với các tội phạm ít nghiêm trọng mà Bộ luật quy định hình phạt từ hai năm tù trở xuống hoặc hình phạt khác nhẹ hơn;

 

b) Mười năm tù đối với các loại tội pham ít nghiêm trọng mà Bộ luật quy định hình phạt tù trên hai năm;

 

c) Mười lăm năm đối với các loại tội phạm nghiêm trọng.

 

Nếu trong thời hạn nói trên, người phạm tội lại phạm tội mới mà Bộ luật quy định thì hình phạt từ một năm tù trở lên thì thời gian đã qua không được tính và thời hiệu đối với tội cũ tính lại kể từ ngày phạm tội mới.

 

Nếu trong thời hạn nói trên, người phạm tội cố tình trốn tránh và đã có lệnh truy nã thì thời gian trốn tránh không được tính; thời hiệu tính lại kể từ khi người đó ra tự thú hoặc bị bắt giữ”.

 

Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự sẽ được tính từ tội phạm được thực hiện cho tới khi phát hiện tội phạm tức là từ khi cơ quan điều tra nhận được tố giác, tin báo về tội phạm. Như vậy, theo nguyên tắc, cơ quan điều tra A đã ra quyết định truy nã đối với 2 bị can T và H khi 2 bị can bỏ trốn thì thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự khi 2 bị cáo bỏ trốn sẽ không được tính, thời hiệu tính lại kể từ khi 2 bị can ra tự thú hoặc bị bắt giữ.  

 

Do đó, đến ngày 29/12/2017, cơ quan điều tra A bàn giao hồ sơ vụ án cho Cơ quan An ninh điều tra B theo thầm quyền mà 2 bị can chưa ra tự thú hoặc bị bắt giữ thì thì thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự khi 2 bị cáo bỏ trốn sẽ không được tính, hay nói cách khác vẫn còn thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. Vậy nên, việc bàn giao cơ quan điều tra để tiếp tục điều tra vụ án là phù hợp với quy định của pháp luật.

 

Vấn đề 2

 

Điều 230 khoản 1 BLHS 1999 quy định Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự như sau:

 

"1. Người nào chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự, thì bị phạt tù từ một năm đến bảy năm".

 

Theo quy định tại Điều 23 BLHS 1999 Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự

 

“1. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là thời hạn do Bộ luật này quy định mà khi hết thời hạn đó thì người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

 

2. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định như sau:

 

a) Năm năm đối với các tội phạm ít nghiêm trọng; 

 

b) Mười năm đối với các tội phạm nghiêm trọng; 

 

c) Mười lăm năm đối với các tội phạm rất nghiêm trọng;

 

d) Hai mươi năm đối với các tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

 

3. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được tính từ ngày tội phạm được thực hiện. Nếu trong thời hạn quy định tại khoản 2 Điều này người phạm tội lại phạm tội mới mà Bộ luật quy định mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy trên một năm tù, thì thời gian đã qua không được tính và thời hiệu đối với tội cũ được tính lại kể từ ngày phạm tội mới.

 

Nếu trong thời hạn nói trên, người phạm tội cố tình trốn tránh và đã có lệnh truy nã, thì thời gian trốn tránh không được tính và thời hiệu tính lại kể từ khi người đó ra tự thú hoặc bị bắt giữ”.

 

Như vậy, thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự sẽ được tính từ tội phạm được thực hiện cho tới khi phát hiện tội phạm tức là từ khi cơ quan điều tra nhận được tố giác, tin báo về tội phạm. Tuy nhiên, để xem xét việc có tính thời gian tạm đình chỉ điều tra có được tính vào thời gian truy cứu trách nhiệm hình sự hay không thì còn phụ thuộc vào lý do tạm đình chỉ vụ án.  

 

Điều 160 BLTTHS năm 2003 quy định về Tạm đình chỉ điều tra:

 

“1. Khi bị can bị bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo khác có chứng nhận của Hội đồng giám định pháp y thì có thể tạm đình chỉ điều tra trước khi hết hạn điều tra. 

 

Trong trường hợp chưa xác định được bị can hoặc không biết rõ bị can đang ở đâu thì chỉ tạm đình chỉ điều tra khi đã hết thời hạn điều tra.

 

Trong trường hợp đã trưng cầu giám định nhưng chưa có kết quả giám định mà hết thời hạn điều tra thì tạm đình chỉ điều tra và việc giám định vẫn tiếp tục được tiến hành cho đến khi có kết quả.

 

Trong trường hợp vụ án có nhiều bị can mà lý do tạm đình chỉ điều tra không liên quan đến tất cả các bị can, thì có thể tạm đình chỉ điều tra đối với từng bị can.

 

Nếu không biết bị can đang ở đâu thì Cơ quan điều tra phải ra quyết định truy nã trước khi tạm đình chỉ điều tra.

 

2. Cơ quan điều tra ra quyết định tạm đình chỉ điều tra phải gửi quyết định này cho Viện kiểm sát cùng cấp, bị can, người bị hại”.

 

Như vậy, vì lý do tạm đình chỉ là chưa xác định được người thực hiện hành vi phạm tội cho nên quyết định tạm đình chỉ đã có nội dung phù hợp với quy định, thời gian tạm đình chỉ này sẽ không được tính vào thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. Khi tạm đình chỉ mà hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự thì sẽ không được truy cứu nữa. Vậy nên, vụ án chiếm đọat vũ khí quân dụng phát hiện ngày 11/8/2002, vụ án được khởi tố theo điều 230 khoản 1 BLHS 1999 là tội nghiêm trọng tại khoản 3 Điều 8 BLHS 1999 (thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là 10 năm đã kể từ ngày tội phạm được thực hiện) nên đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. Do vậy, thời điểm hiện tại cơ quan điều tra ra quyết định đình chỉ điều tra vụ án của là phù hợp với quy định của pháp luật.

 

Trên đây là nội dung tư vấn của Luật Minh Gia về vấn đề bạn hỏi và quan tâm. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ cần luật sư giải đáp, bạn vui lòng gọi đến Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến của chúng tôi - Số điện thoại liên hệ: 1900.6169 để được hỗ trợ kịp thời.

 

Trân trọng.
CV tư vấn: Lê Phương Thảo - Luật Minh Gia

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

Liên hệ tư vấn
Chat zalo