Luật sư Nguyễn Mạnh Tuấn

Thu hồi đất đai bồi thường theo quy định thế nào?

Kính gửi công ty Luật Minh Gia, tôi muốn hỏi về trường hợp bồi thường, đền bù và hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất, nội dung như sau: Gia đình chúng tôi bị ảnh hưởng nặng do giải phóng mặt bằng (GPMB) - nâng cấp và mở rộng quốc lộ X. Gia đình chúng tôi chỉ được đền bù hoa màu, cây cối và hỗ trợ về đất đai tôn tạo. Công trình nhà ở và các vật kiến trúc trên đất bị giải tỏa chỉ được hỗ trợ 80%. Còn toàn bộ đất đai bị nhà nước thu hồi không được đền bù, hỗ trợ.

Cụ thể như sau:

 

Đầu  năm 1992, gia đình chúng tôi được chính quyền xã cấp cho 1 thửa đất ở gần cầu Ngấy để vợ chồng sinh sống. Lúc đó, vùng này chỉ là vùng đầm lầy, hố bom  rất thấp so với mặt đường thời bấy giờ, bị ngập lụt quanh năm. Vì thế, 2 vợ chồng đã cùng anh em bỏ công sức, tiền bạc để cải tạo, đắp đất  để xây dựng nhà cửa và sản xuất nông nghiệp. Vất vả tạo dựng được thửa đất khoảng 1000 m2 để sản xuất nông nghiệp và có xây dựng 2 căn nhà  để ở và bán hàng tạp hóa khoảng gần 200 m2 trong cùng thửa đất. Gia đình đã sinh sống ổn định, không có tranh chấp, lấn chiếm từ đó cho đến khi được chính quyền địa phương cấp bìa năm 1994 là 200 m2 đất ở. Còn đất vườn chưa được cấp bìa nhưng đã được chính quyền địa phương xác nhận và ghi vào là đất vườn sử dụng của gia đình và nộp thuế sử dụng đất đầy đủ.

Tình trạng hiện nay:

1. Năm 2011, Ban GPMB của địa phương có đến đặt vấn để với gia đình về chuyện nhà nước thu hồi đất để làm dự án mở rộng và nâng cấp QL1A. Gia đình đã nhiệt tình ủng hộ và tạo điều kiện cho ban GPMB tiến hành đo đếm, liệt kê tài sản bị ảnh hưởng. Sau khi nhận được bản thống kê tài sản được đền bù kèm theo đơn giá đền bù. Gia đình đã rất ngạc nhiên vì số đất bị thu hồi tính từ mép chân đường QL1A hiện tại là 23,5mx30m = 705 m2 không được nhắc đến. Năm 1998, có giải phóng mặt bằng nâng cấp, mở rộng QL 1A mỗi bên là 3m nên đã hết phần diện tích đất lưu không. Mà từ năm 1992 đến nay gia đình chúng tôi chưa từng nhận đền bù, hỗ trợ hay ký 1 văn bản nào liên quan đến thửa đất.

2. Gia đình chúng tôi đã viết đơn kiến nghị gửi lên chính quyền cấp xã, cấp huyện vào ngày 30/12/2013 và được trả lời bằng văn bản vào ngày 13/01/2014 của UBND huyện G với nội dung: căn cứ vào Nghị định 203/HĐBT. Mà theo tôi được biết thì bộ luật này đã hết hiệu lực và trong quyết định đền bù của tỉnh số 217/QĐ-UBND ban hành ngày 17/01/2013 không nhắc đến luật này.

3. Căn cứ các Điều 3, 42, 53,  khoản 4 điều 50 Luật Đất đai ngày 16/11/2003 của Quốc hội; Điều 8 Nghị định số 197/2004/NĐ-CP, Điều 11 Nghị định số 69/2009/NĐ-CP của Chính phủ; Điều 3, Thông tư số 14/2009TT của Bộ Tài nguyên và Môi trường; Điều 2, quyết định số 11/2011/QĐ-UBND ngày 16/6/2011 và quyết định số 2xx/201x/QĐ-UBND của UBND tỉnh B ngày 17/1/2003 thì gia đình chúng tôi đủ cơ sở pháp lí về đất và tài sản trên đất khi bị Nhà nước thu hồi để được bồi thường theo luật định.

Xin công ty luật Minh Gia tư vấn hướng giải quyết vấn đề này như thế nào. Gia đình chúng tôi xin chân thành cảm ơn. (để nghị tư vấn theo quy định tại thời điểm hỏi).

 

Luật sư tư vấn về trường hợp bồi thường khi thu hồi đất (Hà tĩnh)
>>  Luật sư tư vấn giải đáp pháp luật Đất đai qua điện thoại 1900.6169
 

Trả lời: Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi đề nghị tư vấn đến Công ty Luật Minh Gia, trường hợp của bạn chúng tôi tư vấn như sau:

 

1. Bồi thường về đất:

 

Theo quy định tại Khoản 1 Điều 42 Luật đất đai 2003 thì Nhà nước thu hồi đất của người sử dụng đất mà người bị thu hồi có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc đủ điều kiện để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định tại Điều 50 của Luật này thì người bị thu hồi đất được bồi thường, trừ các trường hợp Nhà nước thu hồi đất mà không bồi thường về đất quy định tại khoản 1 điều 43 Luật đất đai, bao gồm:
 

- Tổ chức được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất, được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất mà tiền sử dụng đất có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước hoặc cho thuê đất thu tiền thuê đất hàng năm bị giải thể, phá sản, chuyển đi nơi khác, giảm hoặc không còn nhu cầu sử dụng đất;
 

- Sử dụng đất không đúng mục đích, sử dụng đất không có hiệu quả;
 

- Người sử dụng đất cố ý hủy hoại đất;
 

- Đất được giao không đúng đối tượng hoặc không đúng thẩm quyền;
 

- Đất bị lấn, chiếm trong các trường hợp: Đất chưa sử dụng bị lấn, chiếm; đất không đượcchuyển quyền sử dụng đất theo quy định của Luật này mà người sử dụng đất do thiếu trách nhiệm để bị lấn, chiếm;
 

- Cá nhân sử dụng đất chết mà không có người thừa kế;
 

- Người sử dụng đất tự nguyện trả lại đất;
 

- Người sử dụng đất cố ý không thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước;
 

- Đất được Nhà nước giao, cho thuê có thời hạn mà không được gia hạn khi hết thời hạn;
 

- Đất trồng cây hàng năm không được sử dụng trong thời hạn mười hai tháng liền; đất trồng cây lâu năm không được sử dụng trong thời hạn mười tám tháng liền; đất trồng rừng không được sử dụng trong thời hạn hai mươi bốn tháng liền;
 

- Đất được Nhà nước giao, cho thuê để thực hiện dự án đầu tư mà không được sử dụng trong thời hạn mười hai tháng liền hoặc tiến độ sử dụng đất chậm hơn hai mươi bốn tháng so với tiến độ ghi trong dự án đầu tư, kể từ khi nhận bàn giao đấttrên thực địa mà không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định giao đất, cho thuê đất đó cho phép.
 

- Đất rừng phòng hộ; đất rừng đặc dụng; đất xây dựng trụ sở cơ quan, xây dựng công trình sự nghiệp; đất sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh; đất giao thông, thuỷ lợi; đất xây dựng các công trình văn hoá, y tế, giáo dục và đào tạo, thể dục thể thao và các công trình công cộng khác không nhằm mục đích kinh doanh; đất làm nghĩa trang, nghĩa địa;
 

- Đất nông nghiệp do cộng đồng dân cư sử dụng;
 

- Đất được Nhà nước giao có thu tiền sử dụng đất, nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà tiền sử dụng đất, tiền nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước;
 

- Đất thuê của Nhà nước;
 

- Trường hợp không đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quy định tại Điều 50 của Luật này;
 

- Đất nông nghiệp sử dụng vào mục đích công ích của xã, phường, thị trấn.

 

Như vậy, theo thông tin bạn cung cấp thì diện tích đất trên đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không thuộc các trường hợp thu hồi đất mà không được bồi thường về đất, do đó gia đình bạn đủ điều kiện để được bồi thường khi bị thu hồi đất. Việc không bồi thường về đất cho gia đình bạn như vậy là không đúng quy định của pháp luật, cách giải thích của UBND huyện Cẩm Xuyên cũng không hợp lý.

 

2. Bồi thường về tài sản gắn liền với đất:

 

Theo quy định tại Khoản 2 Điều 43 Luật đất đai năm 2003 thì khi Nhà nước thu hồi đất, người bị thu hồi đất không được bồi thường về tài sản gắn liền với đất trong các trường hợp sau:
 

“a) Tài sản gắn liền với đất được tạo ra tại khu vực đất bị thu hồi sau khi quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng đô thị, quy hoạch xây dựngđiểm dân cư nông thôn đã được công bố mà không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép;
 

b) Tài sản gắn liền với đất được tạo ra trước khi có quyết định thu hồi đất mà trái với mục đích sử dụng đất đã được xác định trong quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất tại thời điểm xây dựng công trình đó;
 

c) Đất bị thu hồi thuộc các trường hợp quy định tại các khoản 4, 6, 7 và 10 Điều 38 của Luật này”.

 

Về mức bồi thường tài sản gắn liền với đất được quy định tại Điều 24 Nghị định số 69/2009 mức bồi thường được quy định như sau:
 

1. Đối với nhà ở, công trình phục vụ sinh hoạt của hộ gia đình, cá nhân, được bồi thường bằng giá trị xây dựng mới của nhà, công trình có tiêu chuẩn kỹ thuật tương đương do Bộ Xây dựng ban hành. Giá trị xây dựng mới của nhà, công trình được tính theo diện tích xây dựng của nhà, công trình nhân với đơn giá xây dựng mới của nhà, công trình do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành theo quy định của Chính phủ.
 

2. Đối với nhà, công trình xây dựng khác không thuộc đối tượng quy định tại khoản 1 Điều này được bồi thường như sau:
 

a) Mức bồi thường nhà, công trình bằng tổng giá trị hiện có của nhà, công trình bị thiệt hại và khoản tiềntính bằng tỷ lệ phần trăm theo giá trị hiện có của nhà, công trình;
 

Giá trị hiện có của nhà, công trình bị thiệt hại được xác định bằng tỷ lệ phần trăm chất lượng còn lại của nhà, công trình đó nhân với giá trị xây dựng mới của nhà, công trình có tiêu chuẩn kỹ thuật tương đương do Bộ quản lý chuyên ngànhban hành.
 

Khoản tiềntính bằng tỷ lệ phần trăm theo giá trị hiện có của nhà, công trình do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định, nhưng mức bồi thường tối đa không lớn hơn100% giá trị xây dựng mới của nhà, công trình có tiêu chuẩn kỹ thuật tương đương với nhà, công trình bị thiệt hại.
 

b) Đối với nhà, công trình xây dựng khác bị phá dỡ một phần, mà phần còn lại không còn sử dụng được thì được bồi thường cho toàn bộ nhà, công trình; trường hợp nhà, công trình xây dựng khác bị phá dỡ một phần, nhưng vẫn tồn tại và sử dụng được phần còn lại thì được bồi thường phần giá trị công trình bị phá dỡ và chi phí để sửa chữa, hoàn thiện phần còn lại theo tiêu chuẩn kỹ thuật tương đương của nhà, công trình trước khi bị phá dỡ.
 

3. Đối với công trình hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội đang sử dụng thì mức bồi thường tính bằng giá trị xây dựng mới của công trình có tiêu chuẩn kỹ thuật cùng cấp theo tiêu chuẩn kỹ thuật do Bộ quản lý chuyên ngành ban hành; nếu công trình không còn sử dụng thì không được bồi thường.
 

Trong trường hợp công trình hạ tầng thuộc dự án phải di chuyển mà chưa được xếp loại vào cấp tiêu chuẩn kỹ thuật hoặc sẽ nâng cấp tiêu chuẩn kỹ thuật thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thống nhất với cơ quan có thẩm quyền quyết định đầu tư hoặc chủ đầu tư dự án để xác định cấp tiêu chuẩn kỹ thuật để bồi thường”.

 

Như vây, mức bồi thường của UBND huyện Cẩm Xuyên như vậy là chưa đúng theo quy định của pháp luật.

 

Trong trường hợp bạn không đồng ý với quyết định thu hồi đất thì có thể gửi đơn khiếu nại quyết định hành chính đó đến Chủ tịch UBND huyện đã ra quyết định thu hồi. Trường hợp khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính về quản lý đất đai do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh giải quyết lần đầu mà người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khởi kiện tại Toà án nhân dân hoặc tiếp tục khiếu nại đến Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Trong trường hợp khiếu nại đến Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thì quyết định của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương là quyết định giải quyết cuối cùng ( điểm a Khoản 2 Điều 138 Luật đât đai). Tuy nhiên bạn cần chú ý đến thời hiệu khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính được quy định tại điểm c Khoản 2 Điều 138: “Thời hiệu khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính về quản lý đất đai là ba mươi ngày, kể từ ngày nhận được quyết định hành chính hoặc biết được có hành vi hành chính đó. Trong thời hạn bốn mươi lăm ngày, kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu mà người khiếu nại không đồng ý thì có quyền khiếu nại đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc khởi kiện tại Tòa án nhân dân”.

 

Trên đây là nội dung tư vấn của Luật Minh Gia về vấn đề bạn yêu cầu tư vấn: Luật sư tư vấn về trường hợp bồi thường khi thu hồi đất (Hà tĩnh). Nếu còn vướng mắc, chưa rõ bạn vui lòng liên hệ luật sư tư vấn bồi thường khi nhà nước thu hồi đất trực tuyến để được giải đáp.

 

Trân trọng

P. Luật sư tư vấn - Công ty Luật Minh Gia

Có thể bạn quan tâm:
>>  Tổng đài luật sư tư vấn pháp luật Đất đai
>>  Tư vấn mua bán, chuyển nhượng đất đai
>>  Dịch vụ Luật sư đại diện giải quyết tranh chấp đất đai
>>  Tư vấn thủ tục khởi kiện vụ án tranh chấp Đất đai, Nhà ở

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

Liên hệ tư vấn
Chat zalo