Trần Phương Hà

Xuất ngũ trước thời hạn quy định thế nào?

Anh chị cho em hỏi về trường hợp của em về xuất ngũ trước thời hạn như sau: Gia đình e có 2 vợ chồng, hiện nay e đang mang thai tháng thứ 7, em chỉ đi làm hợp đồng và khi sinh em bé em hoàn toàn không có sức lao động cũng như không có thu nhập. Chồng e đang phải đi thực hiện nghĩa vụ quân sự và đã đi được 1 tháng.

Vậy anh chị cho e hỏi trường hợp của chồng em như vậy có được tạm hoãn ra quân trước thời hạn không ạ? Lúc chồng em chuẩn bị đi lính gia đình em có trình bày hoàn cảnh với các bác ở thị trấn nhưng em không thấy phản hồi gì cả, lúc chồng em đi lính rồi em có làm đơn trình bày hoàn cảnh gửi lên đơn vị chồng em nhưng nhận được câu trả lời là không trong diện tạm hoãn, em có lên uỷ ban nhân dân thị trấn hỏi nhưng bác chủ tịch bảo e là sinh nở là chuyện bình thường, xảy thai là do rủi ro, và không trong diện tạm hoãn. Em có đọc luật và biết trường hợp của chồng em thuộc diện tạm hoãn, mà em gửi đơn lại không được em thấy vô lý quá nên em mong anh chị tư vấn giúp em quy định pháp luật về trường hợp của em. Em xin chân thành cảm ơn.

Trả lời:

Cảm ơn chị đã tin tưởng và gửi yêu cầu tư vấn đến Công ty Luật Minh Gia, về trường hợp của chị chúng tôi xin được tư vấn như sau:

- Quy định về tạm hoãn và miễn nhập ngũ

Theo quy định tại Khoản 2 Điều 43 Luật Nghĩa vụ quân sự năm 2015 quy định như sau:

"1. Hạ sĩ quan, binh sĩ đã hết thời hạn phục vụ tại ngũ quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 21 của Luật này thì được xuất ngũ.

2. Hạ sĩ quan, binh sĩ tại ngũ có thể được xuất ngũ trước thời hạn khi được Hội đồng giám định y khoa quân sự kết luận không đủ sức khỏe để tiếp tục phục vụ tại ngũ hoặc các trường hợp quy định tại điểm b và điểm c khoản 1; các điểm a, b và c khoản 2 Điều 41 của Luật này"

Điều 41 Luật nghĩa vụ quân sự 2015 quy định về tạm hoãn gọi nhập ngũ và miễn gọi nhập ngũ như sau:

" 1. Tạm hoãn gọi nhập ngũ đối với những công dân sau đây:

b) Là lao động duy nhất phải trực tiếp nuôi dưỡng thân nhân không còn khả năng lao động hoặc chưa đến tuổi lao động; trong gia đình bị thiệt hại nặng về người và tài sản do tai nạn, thiên tai, dịch bệnh nguy hiểm gây ra được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận.

c) Một con của bệnh binh, người nhiễm chất độc da cam suy giảm khả năng lao động từ 61% đến 80%;

2. Miễn gọi nhập ngũ đối với những công dân sau đây:

a) Con của liệt sĩ, con của thương binh hạng một;

b) Một anh hoặc một em trai của liệt sĩ;

c) Một con của thương binh hạng hai; một con của bệnh binh suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên; một con của người nhiễm chất độc da cam suy giảm khả năng lao động từ 81 % trở lên; ..."

Chị có trình bày, chị tham khảo Luật và biết được chồng của mình thuộc đối tượng được xuất ngũ trước thời hạn nhưng khi chị làm đơn thì không được giải quyết. Tuy nhiên, chị chưa cung cấp cho chúng tôi cơ sở pháp lí mà chị cho rằng chồng thuộc đối tượng theo quy định tại Điều 43 Luật nghĩa vụ quân sự nên chúng tôi không đánh giá được hành vi của những cơ quan có thẩm quyền.

Theo quy định tại Điều 41, 43 Luật nghĩa vụ quân sự 2014 chồng chị phải thuộc một trong các đối tượng chúng tôi nêu trên thì mới đủ điều kiện để xuất ngũ trước thời hạn. Hiện tại, chị đang mang thai tháng thứ bảy, chỉ đi làm hợp đồng và khi sinh em bé và hoàn toàn không có sức lao động cũng như không có thu nhập.

Điểm b khoản 1 Điều 41 của Luật quy định trường hợp: "Công dân là lao động duy nhất phải trực tiếp nuôi dưỡng thân nhân không còn khả năng lao động hoặc chưa đến tuổi lao động; trong gia đình bị thiệt hại nặng về người và tài sản do tai nạn, thiên tai, dịch bệnh nguy hiểm gây ra được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận".  Căn cứ trên chưa được hướng dẫn cụ thể theo hướng liệt kê trường hợp như thể nào được xác định là "lao động duy nhất phải trực tiếp nuôi dưỡng nhân thân..." nên dẫn tới việc áp dụng chưa thống nhất.

- Xác định lao động duy nhất trực tiếp nuôi dưỡng nhân thân

Theo quan điểm của chúng tôi, trường hợp của gia đình chị thì chồng chưa thể được xác định là lao động duy nhất phải trực tiếp nuôi dưỡng nhân thân chưa đủ tuổi thành niên, bởi các lẽ sau:

- Thứ nhất, NLĐ làm việc theo chế độ hợp đồng được xác định là có việc làm và có thu nhập hợp pháp, không thể lấy lý do là lao động theo hợp đồng để xác định là không có thu nhập (đa số công dân Việt Nam làm theo chế độ hợp đồng);

- Thứ hai, trường hợp NLĐ thuộc đối tượng đóng BHXH bắt buộc, đủ điều kiện hưởng chế độ thai sản thì trong thời gian sinh và nuôi con nhỏ sẽ được hưởng trợ cấp thai sản;

- Thứ ba, sức khỏe của chị yếu là tạm thời do chị đang sắp sinh.

Vậy, ngoài chồng thì chị vẫn được xác định là lao động có thu nhập và có khả năng nuôi dưỡng cháu bé sắp sinh trên.

Chị vẫn có quyền yêu cầu phía UBND cấp xã giải thích có cơ sở để tránh khúc mắc. Chúng tôi nêu quan điểm dựa trên căn cứ pháp lý, nếu chị có hướng giải quyết khác để xác định chồng thuộc đối tượng được xuất ngũ trước hạn thì có thể đề đạt tới UBND và Ban chỉ huy quân sự huyện để được thụ lý và giải đáp. Trong thời gian khó khăn, chị có thể nhờ tới sự giúp đỡ của hai bên gia đình nội, ngoại để sớm ổn định sức khỏe và chăm sóc tốt cho cháu.

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

Liên hệ tư vấn
Chat zalo