Hoàng Tuấn Anh

Tư vấn về thừa kế di sản dành cho thờ cúng

Luật sư cho hỏi về vấn đề thừa kế tài sản dùng vào việc thờ cúng như sau: Nhà tôi có 4 người, ba anh trai và tôi là con gái. Ngày xưa thì 2 anh trai cưới vợ ở ngoài, 1 anh cưới vợ ở cùng với mẹ tôi (ba tôi đã mất), tôi lấy chồng cũng ra riêng. Lúc đó đất đai nhà tôi rất nhiều, nên các anh tôi đã chia ra bán làm 4 phần gồm của mẹ tôi (làm nhà thờ chưa bán), 3 phần còn lại chia cho 3 anh và đã bán lấy tiền hết rồi, tôi thì không cần nên cũng không ý kiến.

 

Đến nay, 2 anh của tôi bị bệnh đã mất, còn 1 anh hai. Mẹ tôi cũng đã chuyển ra ngoài nhà anh hai tôi ở (mẹ tôi đã 90 tuổi rồi ạ), anh hai tôi chăm sóc. Hiện tại phần đất của mẹ tôi (nhà thờ) cũng đã có sổ đỏ, anh hai tôi đang cầm, bây giờ anh hai tôi muốn bán đất của mẹ tôi. Như vậy có được không, nếu muốn ngăn cản anh hai tôi không được bán nhà của mẹ tôi thì phải làm thế nào. Nếu mẹ tôi mất thì quyền thừa kế sẽ như thế nào ạ. Và tôi muốn sau khi mẹ tôi mất, miếng đất của mẹ tôi ko ai có quyền được bán, và chỉ để làm nhà thờ, thì phải làm thủ tục như thế nào ạ.xin tư vấn giúp tôi với. Tôi vô cùng cảm ơn ạ.

 

Trả lời tư vấn:

 

Chào bạn, cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi đề nghị tư vấn đến Công ty Luật Minh Gia, trường hợp của bạn chúng tôi tư vấn như sau:

 

Thứ nhất, mẹ chị đã đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì đây là tài sản của mẹ chị. Theo Điều theo Điều 3 Khoản 24 Luật Đất đai 2013:

 

Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là chứng thư pháp lý để Nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và quyền sở hữu tài sản khác gắn liền với đất”.

 

Qua quy định trên, có thể thấy người đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở được Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở của người đó, trong trường hợp này là mẹ của chị. Do đó, khi anh trai chị bán mảnh đất, tức là chuyển quyền sử dụng đất cho người khác sẽ cần sự đồng ý của mẹ chị bởi mẹ chị là chủ thể có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở gắn liền với đất. Trong trường hợp anh trai chị vẫn cố tình bán, giao dịch giữa anh trai chị và người mua có thể bị tòa án tuyên bố là giao dịch dân sự vô hiệu do chủ thể không đáp ứng được điều kiện giao kết hợp đồng.

 

Thứ hai, khi mẹ chị mất, di sản sẽ được phân chia theo hai trường hợp:

 

Trường hợp 1:

 

Mẹ chị viết di chúc và di chúc hợp pháp, di sản sẽ được phân chia theo đúng ý chí của mẹ chị đã ghi nhận trong di chúc. Căn cứ pháp lý là Điều 609 Bộ luật dân sự 2015:

 

“Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật.

 

Người thừa kế không là cá nhân có quyền hưởng di sản theo di chúc.”

 

Trường hợp 2:

 

Mẹ chị không viết di chúc, lúc này di sản sẽ được phân chia theo quy định của pháp luật. Theo Điều 651 Bộ luật dân sự 2015 quy định về người thừa kế theo pháp luật:

 

“1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

 

a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;

 

b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;

 

c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.

 

2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.

 

3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.”

 

Như vậy, mỗi người thuộc hàng thừa kế thứ nhất, bao gồm anh trai chị và chị sẽ được hưởng phần di sản bằng nhau.

 

Thứ ba, trong trường hợp chị không muốn bán mảnh đất và nhà thờ họ trong khi đây vẫn là tài sản của mẹ chị, chị có thể trình bày với mẹ để mẹ chị lập di chúc bằng văn bản. Trong di chúc ghi rõ mảnh đất và nhà thờ là di sản dùng vào việc thờ cúng. Căn cứ theo Điều 645 Bộ luật dân sự 2015:

 

“1. Trường hợp người lập di chúc để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng thì phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho người đã được chỉ định trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng; nếu người được chỉ định không thực hiện đúng di chúc hoặc không theo thỏa thuận của những người thừa kế thì những người thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho người khác quản lý để thờ cúng.

 

Trường hợp người để lại di sản không chỉ định người quản lý di sản thờ cúng thì những người thừa kế cử người quản lý di sản thờ cúng.

 

Trường hợp tất cả những người thừa kế theo di chúc đều đã chết thì phần di sản dùng để thờ cúng thuộc về người đang quản lý hợp pháp di sản đó trong số những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật.”

 

Cần lưu ý một điều là di chúc của mẹ chị phải hợp pháp thì mới có giá trị pháp lý. Theo Điều 630 Bộ luật dân sự, điều kiện để di chúc hợp pháp là:

 

“1. Di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:

 

a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép;

 

b) Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của luật.

 

2. Di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được lập thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc.

 

3. Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.

 

4. Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều này.

 

5. Di chúc miệng được coi là hợp pháp nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau khi người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng, người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng thực xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng.”

 

Trong trường hợp di chúc của mẹ chị được lập không có người làm chứng, những nội dung bắt buộc phải có trong di chúc theo Điều 631 Bộ luật dân sự 2015 là:

 

“1. Di chúc gồm các nội dung chủ yếu sau:

 

a) Ngày, tháng, năm lập di chúc;

 

b) Họ, tên và nơi cư trú của người lập di chúc;

 

c) Họ, tên người, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản;

 

d) Di sản để lại và nơi có di sản.

 

2. Ngoài các nội dung quy định tại khoản 1 Điều này, di chúc có thể có các nội dung khác.

 

3. Di chúc không được viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu, nếu di chúc gồm nhiều trang thì mỗi trang phải được ghi số thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di chúc.

 

Trường hợp di chúc có sự tẩy xóa, sửa chữa thì người tự viết di chúc hoặc người làm chứng di chúc phải ký tên bên cạnh chỗ tẩy xóa, sửa chữa.”

 

Ngoài ra chị có thể sử dụng dịch vụ công chứng hoặc chứng thực di chúc của mẹ theo Điều 635 Bộ luật dân sự quy định “Người lập di chúc có thể yêu cầu công chứng hoặc chứng thực bản di chúc”. Thủ tục lập di chúc tại cơ quan công chứng hoặc ủy bản nhân dân xã, phường, thị trấn quy định tại Điều 636 Bộ luật dân sự là:

 

“Việc lập di chúc tại tổ chức hành nghề công chứng hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã phải tuân theo thủ tục sau đây:

 

1. Người lập di chúc tuyên bố nội dung của di chúc trước công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã phải ghi chép lại nội dung mà người lập di chúc đã tuyên bố. Người lập di chúc ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc sau khi xác nhận bản di chúc đã được ghi chép chính xác và thể hiện đúng ý chí của mình. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã ký vào bản di chúc.

 

2. Trường hợp người lập di chúc không đọc được hoặc không nghe được bản di chúc, không ký hoặc không điểm chỉ được thì phải nhờ người làm chứng và người này phải ký xác nhận trước mặt công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã chứng nhận bản di chúc trước mặt người lập di chúc và người làm chứng.

 

Như vậy, chị có thể sử dụng dịch vụ công chứng, chứng thực để đảm bảm tính hợp pháp của di chúc mẹ chị lập

 

Trên đây là nội dung tư vấn của Luật Minh Gia về vấn đề bạn yêu cầu tư vấn: Tư vấn về thừa kế di sản dành cho thờ cúng. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận luật sư Tư vấn pháp luật Dân sự trực tuyến - Số điện thoại: 1900.6169 để được giải đáp, hỗ trợ kịp thời.

 

Trân trọng.

CV. Chu Hoàng Hải - Công ty luật Minh Gia

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

Liên hệ tư vấn
Chat zalo