Tranh chấp di sản thừa kế xử lý thế nào?

Chào Luật sư, tôi có trường hợp tư vấn về giải quyết tranh chấp về di sản thừa kế như sau kính mong nhận được sự tư vấn của Luật sư: Ba tôi có 3 người con với vợ trước và 2 người con với mẹ tôi. Ba mẹ tôi đứng tên chung 1 căn nhà và trong sổ hộ khẩu không có tên 3 người con của vợ trước.

 

Năm 2012 Ba tôi mất, có để lại 1 bức thư viết tay là toàn bộ nhà, gia sản để lại cho mẹ tôi (vợ sau) và con cái không ai được can thiệp. Đồng thời năm 2007 ba và mẹ tôi có ra Phường làm di chúc: sau khi ba mẹ tôi mất thì căn nhà sẽ do em trai út của tôi được thừa kế. Hình thức di chúc là bằng văn bản đánh máy có chữ ký của ba mẹ tôi và có xác nhận của Chủ tịch UBND Phường là ba tôi làm di chúc trong tình trạng tỉnh táo không bị ép buộc, có đóng dấu của Chủ tịch UBND Phường. Vậy tôi xin hỏi :

1. Di chúc như vậy có hợp pháp không ?

2. Mẹ tôi làm thủ tục cho tặng cho em trai tôi ( người đc thừa kế) để em tôi đứng tên căn nhà có được không, thủ tục phải làm thế nào ? Có cần chữ ký của 3 người con riêng kia không ?

3. Một người con riêng đâm đơn kiện đòi chia lại tài sản thì có căn cứ gì để tòa án thụ lý không ? Người con riêng đó đang ở nước ngoài, họ có thể nộp đơn kiện và yêu cầu thụ lý vụ án mà không phải về nước không ?

Tôi trân trọng cảm ơn và mong nhận được phản hồi sớm từ Quý Luật sư! Kính thư!

 

Trả lời tư vấn: 

 

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn đến Công ty Luật Minh Gia. Trường hợp của bạn, chúng tôi tư vấn như sau:

 

Thứ nhất, về tính hợp pháp của di chúc

 

- Với di chúc chung của bố mẹ bạn

 

 Do bố mẹ bạn lập di chúc vào năm 2007 do đó di chúc chung của bố mẹ bạn phải tuân thủ theo các quy định tại Bộ luật dân sự 2005.

 

Điều 663 Bộ luật dân sự 2005 quy định về Di chúc chung của vợ, chồng như sau:

 

“Vợ, chồng có thể lập di chúc chung để định đoạt tài sản chung.”

 

Điều 652 Bộ luật dân sự 2005 quy định về di chúc hợp pháp như sau: 

 

“1. Di chúc được coi là hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:

 

a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ hoặc cưỡng ép;

 

b) Nội dung di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của pháp luật.”

 

Theo thông tin bạn cung cấp, năm 2007, bố mẹ bạn lên phường để lập di chúc chung và được chủ tịch ủy ban nhân dân phường xác nhận là bố mẹ bạn lập di chúc trong trạng thái minh mẫn, sáng suốt, không bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép và nội dung của di chúc không trái với quy định của pháp luật hơn nữa lại có đóng dấu của chủ tịch ủy ban nhân dân phường. Do đó, theo quy định của pháp luật, di chúc chung của bố mẹ bạn là hợp pháp.

 

- Với di chúc của bố bạn:

 

Theo quy định tại Điều 655 Bộ luật Dân sự 2005:

 

"Điều 655. Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng

 

Người lập di chúc phải tự tay viết và ký vào bản di chúc.

 

Việc lập di chúc bằng văn bản không có người làm chứng phải tuân theo quy định tại Điều 653 của Bộ luật này."

 

Đồng thời, khoản 4 Điều 652 Bộ luật Dân sự 2005 quy định: "4. Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều này."

 

Vì đây là di chúc do chính bố bạn viết và nội dung của bản di chúc không trái với quy định của pháp luật nên nếu bố bạn viết di chúc trong tình trạng minh mẫn, sáng suốt, không bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép và nội dung của di chúc tuân theo quy định tại Điều 653 thì di chúc của bố bạn là di chúc hợp pháp. Tuy nhiên, vì trước đó, vào năm 2007, bố bạn có lập di chúc chung cùng mẹ bạn với nội dung là sau khi bố mẹ bạn chết, căn nhà sẽ do em trai út của bạn được thừa kế. Do đó, theo quy định tại khoản 3 Điều 667 Bộ luật Dân sự 2005:

 

"Điều 667. Hiệu lực pháp luật của di chúc

...

3. Di chúc không có hiệu lực pháp luật, nếu di sản để lại cho người thừa kế không còn vào thời điểm mở thừa kế; nếu di sản để lại cho người thừa kế chỉ còn một phần thì phần di chúc về phần di sản còn lại vẫn có hiệu lực."

 

Như vậy, trong trường hợp này, phần di chúc của bố bạn về tài sản là ngôi nhà sẽ không có hiệu lực pháp luật, phần di chúc về những tài sản còn lại vẫn có hiệu lực pháp luật. Phần di chúc về ngôi nhà sẽ được chia cho người con út theo đúng nội dung di chúc bố bạn đã để lại.

 

Thứ hai, về việc mẹ bạn muốn tặng cho em trai bạn căn nhà

 

Điều 664 Bộ luật Dân sự 2005 quy định về việc sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung của vợ, chồng như sau:

 

"1. Vợ, chồng có thể sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung bất cứ lúc nào.

 

2. Khi vợ hoặc chồng muốn sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung thì phải được sự đồng ý của người kia; nếu một người đã chết thì người kia chỉ có thể sửa đổi, bổ sung di chúc liên quan đến phần tài sản của mình."

 

Nội dung của di chúc chung của bố mẹ bạn là sau khi bố mẹ bạn mất, căn nhà sẽ cho em trai út của bạn thừa kế. Theo quy định tại Điều 668 Bộ luật Dân sự 2005, "di chúc chung của vợ, chồng có hiệu lực từ thời điểm người sau cùng chết hoặc tại thời điểm vợ, chồng cùng chết". Do đó, việc mẹ bạn muốn tặng cho em trai bạn căn nhà trong trường hợp này được xem là việc hủy bỏ di chúc chung của bố mẹ bạn. Vì bố bạn đã mất nên theo quy định trên, mẹ bạn không được quyền hủy bỏ di chúc chung mà chỉ được sửa đổi, bổ sung di chúc liên quan đến phần tài sản của mẹ bạn. Vì vậy, mẹ bạn không thể tặng cho em trai bạn toàn bộ căn nhà trong trường hợp này.

 

Thứ ba, về vấn đề khởi kiện đòi chia di sản

 

Trong trường hợp này, bố bạn để lại di chúc với nội dung là để lại hết tài sản cho mẹ của bạn và các con không ai có quyền can thiệp. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 669 Bộ luật Dân sự 2005:

 

"Điều 669. Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc

 

Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật, nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó, trừ khi họ là những người từ chối nhận di sản theo quy định tại Điều 642 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 643 của Bộ luật này:

 

1. Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;

 

2. Con đã thành niên mà không có khả năng lao động."

 

Theo quy định trên, nếu những người con riêng của bố bạn là người chưa thành niên hoặc người đã thành niên nhưng không có khả năng lao động thì họ vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật. Vì vậy, nếu người con riêng của bố bạn là người đã thành niên và có khả năng lao động thì người đó sẽ không được hưởng di sản nên không có quyền khởi kiện yêu cầu chia di sản. Trường hợp người con riêng đó là người chưa thành niên hoặc người đã thành niên nhưng không có khả năng lao động thì có quyền khởi kiện yêu cầu phân chia di sản. Theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 thì đương sự có thể ủy quyền cho người đại diện tham gia tố tụng dân sự (ngoại trừ đối với việc ly hôn thì đương sự không được uỷ quyền cho người khác thay mặt mình tham gia tố tụng. Trường hợp cha, mẹ, người thân thích khác yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Luật Hôn nhân và gia đình 2014 thì họ là người đại diện). Do đó, trường hợp người con riêng đó có quyền khởi kiện thì có thể gửi đơn khởi kiện kèm theo các chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của người đó là có căn cứ và hợp pháp đến Tòa án thông qua đường bưu điện, nếu vụ việc được Tòa án thụ lý giải quyết thì người đó có thể ủy quyền cho người đại diện tham gia tố tụng mà không cần phải về nước trực tiếp tham gia tố tụng.

 

Trên đây là nội dung tư vấn của Luật Minh Gia về vấn đề bạn yêu cầu tư vấn: Tranh chấp di sản thừa kế xử lý thế nào? Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận luật sư tư vấn pháp luật Dân sự trực tuyến - Số điện thoại: 1900.6169 để được giải đáp, hỗ trợ kịp thời.

 

Trân trọng

Cv. Dương Thị Nhung - Công ty Luật Minh Gia

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

Yêu cầu tư vấn