Nguyễn Ngọc Ánh

Tranh chấp chia di sản thừa kế của bố mẹ đã mất từ những năm 1984./.

Xin trân trọng kính chào Quý anh (chị) luật sư, Tôi có 1 việc muốn trình bày và mong nhận được tư vấn của Quý anh (chị) về trường hợp của gia đình Ông bà nội tôi có được 3 người con ruột:- bác gái (chị gái của bố tôi, bố tôi, Cô tôi (em gái của bố tôi)(ngoài ra, còn 1 người cô – là con của em trai ông nội, đã hy sinh trong kháng chiến chống Pháp được ông bà nội tôi nuôi dưỡng từ bé.

 

Nội dung yêu cầu: Cô lập gia đình năm 1966 và theo chồng vào Thanh Hóa sinh sống từ đó tới nay)Bác gái tôi đã lấy chồng từ lâu (khoảng năm 1964) và đã theo chồng vào Nam sinh sống từ năm 1976 tới nay.Bố tôi xây dựng gia đình năm 1973, đã mất năm 1999.Cô tôi xây dựng gia đình năm 1979, và cũng ở Hà nội từ đó tới nay. Về phần đất ở quê có nguồn gốc của ông bà nội tôi. Năm 1984 thì ông nội tôi mất, tới năm 1989 thì bà nội tôi cũng mất. Khi 2 ông bà mất đi không để lại di chúc vì theo phong tục, tục lệ ở quê thì đất đai vường tược đều để lại cho con trai trưởng (là bố tôi) quản lý và chịu trách nhiệm thờ cúng.Sau khi ông bà nội mất, gia đình tôi đã quản lý và khai thác tài sản này. Tới năm 1999 thì bố tôi mất, và cũng không để lại di chúc. Gia đình tôi vẫn tiếp tục quản lý và khai thác tài sản này. (Từ trước tới nay thì phần thuế đất hàng năm đều do gia đình tôi đóng)Năm 2008, do nhà cũ của ông bà để lại đã quá xuống cấp, không thể sử dụng được nữa thì mẹ tôi có tiến hành xây dựng lại 1 ngôi nhà mới khang trang hơn để làm nơi cúng gia tiên và sinh hoạt mỗi khi về quê. Phần kinh phí này hoàn toàn do mẹ tôi bỏ ra, các cô không ai đóng góp 1 đồng nào. Đồng thời cũng trong năm 2008 này,mẹ tôi có kê khai đất đai ở quê để làm sổ đỏ (3 sổ này đứng tên mẹ tôi và 2 con gái – là 2 em ruột của tôi). Tôi vào TP HCM từ cuối năm 2006 tới tháng 11.2015 mới quay lại Hà nội (đó chính là lý do mẹ tôi đứng tên 1 sổ thay cho tôi). Thời điểm đó cũng không có khiếu kiện gì (và cũng không có sự bàn bạc gì với 2 người con của ông bà nội – vì mẹ tôi chỉ  nghĩ mọi việc làm theo phong tục, tục lệ ở quê). Sau thời gian xác minh tại địa phương theo đúng quy định của nhà nước thì 3 sổ đỏ cũng đã được cấp trong năm 2008.Tới năm 2015 thì cô út tôi có đơn khiếu kiện ở xã, yêu cầu hủy sổ đỏ đã cấp. Xã đã tổ chức hòa giải (01 lần) nhưng không thành công.Và hiện tại thì cô út có đơn khiếu kiện lên Tòa án cấp Huyện. Tôi mới biết vì bên Tòa án có gọi cho tôi hôm nay, hẹn 9h ngày mai có mặt tại Tòa để làm việc.Cô Út đã được chị ruột (bác gái tôi) và cô (con của chú ruột, người mà ông bà nội tôi nuôi từ bé) có giấy ủy quyền thay mặt họ trong việc khiếu kiện này từ năm 2015 tới nay. Xin Quý anh (chị) luật sư có thể tư vấn cho tôi trong trường hợp này cần cung cấp những thông tin gì để không phải hủy 3 sổ đó. Và yêu cầu đòi phân chia tài sản của 3 người kia có hợp lệ hay không? Xin chân thành cám ơn. 

 

Trả lời: Cảm ơn anh/chị đã tin tưởng và gửi yêu cầu tới Công ty Luật Minh Gia! Yêu cầu của anh/chị được tư vấn như sau:

 

Điều 623 Bộ luật dân sự 2015 quy định về thời hiệu thừa kế:

 

“1. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó. Trường hợp không có người thừa kế đang quản lý di sản thì di sản được giải quyết như sau:

 

a) Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu theo quy định tại Điều 236 của Bộ luật này;

 

b) Di sản thuộc về Nhà nước, nếu không có người chiếm hữu quy định tại điểm a khoản này.

 

2. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.

 

3. Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế”.

 

Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình: “... 2. Việc áp dụng các quy định của pháp luật về thời hiệu khởi kiện liên quan đến thừa kế ...

 

2.2. Thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế

 

a. Đối với trường hợp thừa kế mở trước ngày 1/7/1996, thì thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế được thực hiện theo quy định tại Điều 36 của Pháp lệnh Thừa kế năm 1990 và hướng dẫn tại Nghị quyết 02/HĐTP ngày 19/10/1990 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao "hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh Thừa kế.

 

Khi xác định thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế mà thời điểm mở thừa kế trước ngày 1/7/1991 và di sản là nhà ở thì thời gian từ ngày 1/7/1996 đến ngày 1/1/1999 không tính vào thời hiệu khởi kiện”.

 

Nghị quyết 02/1990/ NQ - HĐTP hướng dẫn áp dụng một số quy đỊnh của pháp lệnh thừa kế:

 

“10. VỀ THỜI HIỆU KHỞI KIỆN

 

Khi áp dụng thời hiệu khởi kiện về thừa kế theo quy định Điều 36 của Pháp lệnh Thừa kế cần chú ý như sau:

 

a) Thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà công dân, tổ chức có quyền khởi kiện để yêu cầu Toà án bảo vệ lợi ích của mình. Quá thời hạn đó, họ không có quyền khởi kiện nữa. Có hai thời hạn cho hai loại quyền khởi kiện khác nhau đã được quy định cụ thể tại khoản 1 và khoản 2 của Điều 36, khi áp dụng cần tránh nhầm lẫn.

 

b) Đối với những việc thừa kế đã mở trước ngày 10-9-1990, thì thời hiệu khởi kiện được tính từ ngày 10-9-1990, do đó:

 

- Sau ngày 10-9-2000, đương sự không có quyền khởi kiện để yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác;

 

- Sau ngày 10-9-1993, đương sự không có quyền khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại, thanh toán các chi phí từ di sản”.

 

Theo anh/chị trình bày, ông nôi mất năm 1984 và bà nội mất năm 1989; ông bà nội mất không để lại di chúc để định đoạt di sản thừa kế.

 

Căn cứ Điều 623 Bộ luật dân sự 2015, Nghị quyết 02/2004/NQ – HĐTP, Nghị quyết 02/1990/NQ - HĐTP thì thời hiệu yêu cầu Tòa án giải quyết chia di sản thừa kế vẫn còn do thời hiệu chia di sản thừa kế là bất động sản là 30 năm và thời điểm mở thừa kế được tính từ ngày 10 tháng 09 năm 1990.

 

Hơn nữa, do ông bà nội mất không lập di chúc nên toàn bộ di sản thừa kế sẽ được chia theo pháp luật. Toàn bộ di sản thừa kế sẽ được chia đều cho những người thuộc cùng hàng thừa kế và theo thứ tự quy định tại Điều 650, 651 Bộ luật dân sự 2015.

 

Điều 650. Những trường hợp thừa kế theo pháp luật: “1. Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong trường hợp sau đây: a) Không có di chúc;...”.

 

Điều 651. Người thừa kế theo pháp luật

 

1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

 

a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;

 

b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;

 

c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.

 

2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.

 

3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản”.

 

Theo đó, quan niệm con trai trưởng chịu trách nhiệm thờ cùng và có quyền hưởng toàn bộ di sản thừa kế của bô mẹ để lại là không phù hợp với quy định của pháp luật. Nếu bố mẹ chết không để lại di chúc thì toàn bộ di sản thừa kế sẽ được chia đều cho các con gồm: các con đẻ và con nuôi (bắt buộc phải có giấy tờ chứng minh quan hệ cha mẹ con nuôi).

 

Anh/chị có trình bày, cô Út theo sự ủy quyền của người cô là con của em trai ông nội và bác gái (chị của bố) gửi  đơn tới TAND huyện yêu cầu chia di sản thừa kế. Căn cứ điểm a Khoản 1 Điều 651, mặc dù bác gái đã lấy chồng từ lâu (khoảng năm 1964) và đã theo chồng vào Nam sinh sống từ năm 1976 tới nay; và Cô út xây dựng gia đình năm 1979, và cũng ở Hà nội từ đó tới nay nhưng họ vẫn có quyền được hưởng di sản thừa kế của bố, mẹ để lại. Còn trường hợp người cô là con của em trai ông nội, nếu có căn cứ chứng minh có mối quan hệ cha, mẹ nuôi thì được hưởng di sản thừa kế; nếu không thì không được đảm bảo quyền lợi.

 

Vậy, yêu cầu chia di sản thừa kế là có căn cứ pháp luật, việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với quyền sử dụng đất là di sản thừa kế của ông, bà nội cho những người trong gia đình anh/chị đã ảnh hưởng tới quyền và lợi ích hợp pháp của cô út, bác cả.

 

Tuy nhiên, do trong quá trình quản lý di sản thừa kế thì gia đình anh/chị đã xây dựng nhà ở (do nhà cũ của ông, bà không còn khả năng sử dụng); tôn tạo làm tăng giá trị của thửa đất nên cần cung cấp các tài liệu, chứng cứ (lời khai, lời làm chứng, biên lại, xác nhận của chính quyền địa phương,...) để được thanh toàn chi phí quản lý, thanh toán khoản tiền xây dựng các công trình trên đất, làm tăng thêm giá trị của thửa đất.

 

Điều 618 Bộ luật dân sự 2015 quy định quyền của người quản lý di sản:

 

“1. Người quản lý di sản quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 616 của Bộ luật này có quyền sau đây:

 

a) Đại diện cho những người thừa kế trong quan hệ với người thứ ba liên quan đến di sản thừa kế;

 

b) Được hưởng thù lao theo thỏa thuận với những người thừa kế;

 

c) Được thanh toán chi phí bảo quản di sản.

 

2. Người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản quy định tại khoản 2 Điều 616 của Bộ luật này có quyền sau đây:

 

a) Được tiếp tục sử dụng di sản theo thỏa thuận trong hợp đồng với người để lại di sản hoặc được sự đồng ý của những người thừa kế;

 

b) Được hưởng thù lao theo thỏa thuận với những người thừa kế;

 

c) Được thanh toán chi phí bảo quản di sản.

 

3. Trường hợp không đạt được thỏa thuận với những người thừa kế về mức thù lao thì người quản lý di sản được hưởng một khoản thù lao hợp lý”.

 

Ngoài ra, để 03 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không bị hủy thì các bên có thể tự tiến hành thỏa thuận với nhau và thanh toán một khoản tiền hợp lý tương ứng với quyền lợi của họ được hưởng.

 

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi về vấn đề bạn quan tâm. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ qua Email hoặc gọi điện đến Tổng đài luật sư tư vấn luật trực tuyến - 1900.6169 để được giải đáp, hỗ trợ kịp thời

 

Trân trọng

Phòng tư vấn - Công ty Luật Minh Gia

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

Liên hệ tư vấn