Thừa kế theo pháp luật và thời hiệu yêu cầu khởi kiện chia di sản thừa kế.
Năm 2012 đất chú tôi (chú đã sang tên quyền sử dụng đất từ đất ông nội tôi) được quy hoạch một phần và chú đã nhận hết tiền đền bù (ba mẹ tôi không xin cũng như không đòi hỏi). Và chú nói phần đất còn lại (chưa quy hoạch) sẽ chia cho ba tôi một nền. Chuyện cũng không có gì xảy ra nếu chú tôi biết tình anh em không nuốt lời giờ không cho nữa (Đất lên cao chú tiếc mặc dù chú chỉ cho ba tôi bằng 1/10 của chú còn lại. Ba tôi rất buồn (không phải vì tham miếng đất đó chú không cho mà là buồn về tình cảm của em trai mình vì tiền phụ nghĩa).
Vì vậy tôi muốn nhờ luật sư tư vấn xem liệu ba tôi có khởi kiện đòi quyền thừa kế tài sản của ông bà được không (lúc mất ông bà không ai viết di chúc và đất đã sang quyền sử dụng đất cho chú).
Rất mong sớm nhận được hồi âm từ luật sư. Xin chân thành cảm ơn!!
Trả lời:
Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng gửi câu hỏi tư vấn công ty Luật Minh Gia. Chúng tôi xin tư vấn cho bạn như sau:
Khi ông bà bạn mất không ai để lại di chúc thì di sản thừa kế của ông bà bạn sẽ được chia theo pháp luật căn cứ theo Điểm a khoản 1 Điều 650 Bộ luật dân sự 2015 quy định thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong trường hợp “không có di chúc”.
Căn cứ theo Điều 651 Bộ luật dân sự 2015 quy định người thừa kế theo pháp luật như sau:
“Điều 651. Người thừa kế theo pháp luật
1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.”.
Trong trường hợp này, ông bà bạn chỉ có hai người con là bố bạn và chú bạn nên mỗi người sẽ được hưởng một phần di sản thừa kế bằng nhau.
Tại Điều 623 Bộ luật dân sự 2015 quy định về thời hiệu thừa kế như sau:
“Điều 623. Thời hiệu thừa kế
1. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó. Trường hợp không có người thừa kế đang quản lý di sản thì di sản được giải quyết như sau:
a) Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu theo quy định tại Điều 236 của Bộ luật này;
b) Di sản thuộc về Nhà nước, nếu không có người chiếm hữu quy định tại điểm a khoản này.
2. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
3. Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.”.
Như vậy, theo quy định trên thì thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Khi hết thời hạn trên thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó.
Mặt khác, tại mục 2.2 Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTPquy định về việc áp dụng các quy định của pháp luật về thời hiệu khởi kiện liên quan đến thừa kế như sau:
“2.2. Thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế
a) Đối với trường hợp thừa kế mở trước ngày 01/7/1996, thì thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế được thực hiện theo quy định tại Điều 36 của Pháp lệnh Thừa kế năm 1990 và hướng dẫn tại Nghị quyết 02/HĐTP ngày 19/10/1990 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao "hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh Thừa kế".
Khi xác định thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế mà thời điểm mở thừa kế trước ngày 01/7/1991 và di sản là nhà ở thì thời gian từ ngày 01/7/1996 đến ngày 01/01/1999 không tính vào thời hiệu khởi kiện.
b) Đối với trường hợp thừa kế mở từ ngày 01/7/1996 thì thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế được thực hiện theo quy định tại Điều 648 của Bộ luật Dân sự.”.
Theo thông tin bạn cung cấp thì thời điểm ông nội bạn mất là năm 1990, bà nội mất năm 2002. Do vậy, thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế được thực hiện theo quy định tại Điều 36 của Pháp lệnh Thừa kế năm 1990. Tại Điều 36 Pháp lệnh Thừa kế năm 1990 quy định như sau:
“Điều 36: Thời hiệu khởi kiện về thừa kế
1 - Trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế, người thừa kế có quyền khởi kiện để yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác.
2 - Trong thời hạn ba năm, kể từ thời điểm mở thừa kế, cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại, thanh toán các khoản chi từ di sản.
3 - Trong trường hợp do trở ngại khách quan mà không thể thực hiện được quyền khởi kiện trong thời hạn quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này thì thời gian bị trở ngại khách quan không tính vào thời hiệu khởi kiện.
4 - Đối với các việc thừa kế đã mở trước ngày ban hành Pháp lệnh này thì thời hạn quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này được tính từ ngày công bố Pháp lệnh này.”.
Theo quy định nêu trên, ông nội bạn mất trước ngày 01/7/1996 thì thời hạn khởi kiện về thừa kế được tính từ năm 1990. Bên cạnh đó, tại Điều 623 Bộ luật dân sự 2015 thì thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Do đó, hiện tại vẫn còn thời hiệu khởi kiện yêu cầu phân chia di sản thừa kế.
Như vậy, trong trường hợp này, nếu ba bạn và chú bạn không thỏa thuận được về việc phân chia di sản thừa kế thì ba bạn hoàn toàn có quyền khởi kiện tại Tòa án nhân dân quận (huyện) nơi có bất động sản yêu cầu phân chia di sản thừa kế.
Để khởi kiện yêu cầu Tòa án phân chia di sản thừa kế thì ba bạn phải có căn cứ chứng minh mảnh đất trên trước khi đứng tên chú bạn là tài sản thuộc sở hữu của ông bà nội. Trường hợp này, có thể đến Ủy ban nhân dân xã (phường) xin trích lục sơ đồ địa chính của mảnh đất. Từ đó, sẽ có căn cứ xác định được chủ sở hữu của mảnh đất qua các thời kì.
Trường hợp, xác định được thời điểm trước khi mảnh đất đứng tên chú bạn, chủ sở hữu mảnh đất là ông bà nội của bạn. Do vậy, trường hợp nếu không có giấy tờ chứng minh về việc ông bà nội bạn tặng cho mảnh đất cho người chú thì việc cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên người chú là không đúng quy định pháp luật. Vì vậy, gia đình bạn có thể yêu cầu Tòa án hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp. Khi đó, mảnh đất trên được xác định là di sản thừa kế của ông bà nội bạn. Do khi mất ông bà không để lại di chúc nên di sản thừa kế sẽ được chia theo pháp luật cho hàng thừa kế thứ nhất gồm: ba bạn và chú bạn. Mỗi người sẽ được hưởng phần di sản bằng nhau.
Trên đây là nội dung tư vấn của Luật Minh Gia về vấn đề bạn yêu cầu tư vấn: Thừa kế theo pháp luật và thời hiệu yêu cầu khởi kiện chia di sản thừa kế. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận luật sư tư vấn luật Dân sự trực tuyến - Số điện thoại: 1900.6169 để được giải đáp, hỗ trợ kịp thời.
Trân trọng
Cv: Vũ Nga - Công ty Luật Minh Gia.
Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất