LS Vy Huyền

Liệu có đòi lại được mảnh đất khi đã làm hợp đồng ủy quyền chuyển nhượng mảnh đất không?

Luật sư tư vấn: Bố có làm hợp đồng ủy quyền các bác ruột thực hiện các giao dịch dân sự thay mặt bố làm việc với cơ quan nhà nước có thẩm quyền,làm các thủ tục pháp lý,để quản lý, sử dụng,xin cấp phép xây dựng, chuyển nhượng, tặng cho mảnh đất... Nay mảnh đất bác ruột đã tự ý sang tên bác liệu có đòi lại được mảnh đất không? Giải quyết các vấn đề có liên quan.

Nội dung tư vấn: Xin chào luật sư! Bố em có một mảnh đất do thiếu hiểu biết nên bố em đã bị bác ruột em lừa đảo làm hợp đồng uỷ quyền, thay mặt bố em làm việc với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, làm các thủ tục pháp lý, để quản lý, sử dụng, xin cấp phép xây dựng, chuyển nhượng, tặng cho, cho mượn, góp vốn, cầm cố, thế chấp để vay vốn tại các ngân hàng và các tổ chức tín dụng. Lúc đầu bác ruột của em nói với bố em là cần mượn sổ đỏ để thế chấp vay vốn ngân hàng lấy 5 tỷ đồng nhưng sau đó bằng cách nào mà bác ruột em lại lừa bố em đổi tên sổ đỏ nhà em thành tên nhà bác.

Hỏi: Vậy luật sư cho em hỏi là nhà em có bị mất đất không? Và em có thể làm đơn khởi kiện bác em tội " Lợi dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản " được không ạ. Em xin cám ơn!

 

Trả lời tư vấn: Chào bạn! Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi cần tư vấn tới Công ty Luật Minh Gia, với thắc mắc của bạn chúng tôi giải đáp như sau:

 

Theo như thông tin bạn cung cấp thì bố bạn có làm hợp đồng uỷ quyền cho bác ruột của bạn thay mặt bố bạn làm việc với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, làm các thủ tục pháp lý, để quản lý, sử dụng, xin cấp phép xây dựng, chuyển nhượng, tặng cho, cho mượn, góp vốn, cầm cố, thế chấp để vay vốn tại các ngân hàng và các tổ chức tín dụng tuy nhiên bạn lại không nói rõ hợp đồng ủy quyền đó có đảm bảo hiệu lực pháp lý hay không? Hợp đồng ủy quyền có thực hiện thủ tục công chứng chứng thực hoặc thời hạn của hợp đồng ủy quyền có còn hay không hoặc hợp đồng chuyển nhượng, tặng cho quyền sử dụng đất đó có đảm bảo hiệu lực pháp lý hay không, do đó: 

 

Căn cứ theo quy định tại Điều 138 về Đại diện theo ủy quyền của Bộ luật dân sự năm 2015 như sau:

 

1. Cá nhân, pháp nhân có thể ủy quyền cho cá nhân, pháp nhân khác xác lập, thực hiện giao dịch dân sự.

 

Căn cứ theo quy định tại Điều 141 về Phạm vi đại diện của Bộ luật dân sự năm 2015 như sau:

 

1. Người đại diện chỉ được xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện theo căn cứ sau đây:

 

a) Quyết định của cơ quan có thẩm quyền;

 

b) Điều lệ của pháp nhân;

 

c) Nội dung ủy quyền;

 

d) Quy định khác của pháp luật.

 

2. Trường hợp không xác định được cụ thể phạm vi đại diện theo quy định tại khoản 1 Điều này thì người đại diện theo pháp luật có quyền xác lập, thực hiện mọi giao dịch dân sự vì lợi ích của người được đại diện, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

 

3. Một cá nhân, pháp nhân có thể đại diện cho nhiều cá nhân hoặc pháp nhân khác nhau nhưng không được nhân danh người được đại diện để xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với chính mình hoặc với bên thứ ba mà mình cũng là người đại diện của người đó, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

 

Căn cứ theo quy định tại Điều 167 về Quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp vốn quyền sử dụng đất của Luật đất đai năm 2013 như sau:

 

1. Người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp vốn quyền sử dụng đất theo quy định của Luật này.

 

Thứ nhất, nếu bạn có căn cứ chứng minh về việc hợp đồng ủy quyền hoặc thủ tục chuyển nhượng, tặng cho giữa bố bạn với bác bạn không hợp pháp. Đối với trường hợp này của bạn, bạn cần phải xem xét hợp đồng ủy quyền giữa bố bạn với bác bạn có đảm bảo hiệu lực pháp lý hay không? Hợp đồng ủy quyền giữa bố bạn với bác bạn có làm thủ tục công chứng chứng thực hay không hoặc có còn thời hạn ủy quyền hay không? Ngoài ra, bạn phải xem xét bác của bạn tiến hành thủ tục sang tên cho bác bạn như thế nào? Bác của bạn có nhân danh bố bạn là người được đại diện để xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với chính mình là làm hợp đồng chuyển nhượng, tặng cho quyền sử dụng đất cho chính bác của bạn hay không. Do đó, nếu bạn có căn cứ chứng minh hợp đồng ủy quyền giữa bố bạn với bác bạn không hợp pháp hoặc thủ tục chuyển nhượng, tặng cho mảnh đất giữa bố bạn với bác bạn không hợp pháp thì hợp đồng giao dịch dân sự đó sẽ bị vô hiệu, bố bạn có thể khởi kiện ra Tòa án để yêu cầu đòi lại mảnh đất mà bác của bạn đã sang tên.

 

Thứ hai, nếu bạn không có căn cứ chứng minh về việc hợp đồng ủy quyền hoặc thủ tục chuyển nhượng, tặng cho giữa bố bạn với bác bạn không hợp pháp thì việc bố bạn ủy quyền cho bác bạn thay mặt bố bạn thực hiện chuyển nhượng, tặng cho mảnh đất đúng theo trình tự pháp luật thì bố bạn không có căn cứ để đòi lại mảnh đất mà bác của bạn đã sang tên.

 

Về truy cứu trách nhiệm hình sự:

 

Căn cứ theo quy định tại Điều 175 vềTội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của Bộ luật hình sự năm 2015 như sau:

1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm: 

a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả; 

b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản. 

4. Phạm tội chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm.

 

Đối với trường hợp này của bạn thì căn cứ theo quy định tại Điều 175 của Bộ luật hình sự thì viêc bố bạn ủy quyền đại diện cho bác ruột bạn để thực hiện các giao dịch dân sự chỉ là quan hệ dân sự cho nên không đủ căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của Bộ luật hình sự năm 2015.

 

Trân trọng.
Phòng Luật sư tư vấn dân sự - Công ty Luật Minh Gia.

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

Liên hệ tư vấn
Chat zalo