Nguyễn Thị Thùy Dương

Lập di chúc hay tặng cho tài sản thì người nhận có lợi hơn?

Lập di chúc hay tặng cho tài sản đều là những để chủ sở hữu thực hiện quyền định đoạt tài sản của mình hay đơn giản hơn là chuyển quyền sở hữu của mình sang cho một chủ thể khác.

1. Quy định pháp luật về thừa kế theo di chúc 

- Di chúc là gì?

Theo quy định tại Điều 624 Bộ luật Dân sự 2015, di chúc là sự thể hiện ý chí đơn phương của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết. 

Theo đó, người lập di chúc có thể thực hiện các quyền sau đây thông qua di chúc của mình: 

- Chỉ định người thừa kế; truất quyền hưởng di sản của người thừa kế.

- Phân định phần di sản cho từng người thừa kế.

- Dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng.

- Giao nghĩa vụ cho người thừa kế.

- Chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản.

Bên cạnh đó, để một di chúc được coi là di chúc hợp pháp thì người lập di chúc và nội dung di chúc phải thỏa mãn các điều kiện được quy định tại Điều 630 Bộ luật Dân sự 2015. Cụ thể như sau: 

- Người lập di chúc phải là người thành niên (từ đủ 18 tuổi), minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép;

Người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi có quyền lập di chúc nhưng phải được lập thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc.

- Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của luật.

- Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.

Ngoài ra, trong trường hợp khẩn cấp bị đe dọa đến tính mạng mà không thể lập di chúc bằng văn bản, cá nhân có thể lập di chúc miệng. Di chúc miệng được coi là hợp pháp nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau khi người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng, người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. 

Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng thực xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng.

Nhưng cần lưu ý, sau 03 tháng, kể từ thời điểm di chúc miệng mà người lập di chúc còn sống, minh mẫn, sáng suốt thì di chúc miệng mặc nhiên bị hủy bỏ.

Như vậy, di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân về việc chuyển quyền sở hữu, quyền tài sản của mình cho người khác sau khi chết. Hình thức của di chúc có thể là di chúc miệng hoặc di chúc bằng văn bản nhưng phải đáp ứng các điều kiện của pháp luật. 

- Thời điểm mở thừa kế và hiệu lực của di chúc

Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Trường hợp Tòa án tuyên bố một người là đã chết thì thời điểm mở thừa kế là ngày chết của cá nhân được Tòa án xác định tại Quyết định tuyên bố một người đã chết của Tòa án. 

Căn cứ Điều 643 Bộ luật Dân sự 2015, di chúc có hiệu lực từ thời điểm mở thừa kế. 

Như vậy, kể từ thời điểm người lập di chúc chết thì di chúc mới có hiệu lực pháp luật và những người thừa kế theo di chúc mới được xác lập quyền sở hữu đối với di sản thừa kế mà mình được hưởng. 

2. Quy định pháp luật về tặng cho tài sản

Giống như di chúc, tặng cho tài sản cũng là một hình thức chuyển quyền sở hữu tài sản nhưng việc tặng cho tài sản phải được thực hiện trên cơ sở thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên tặng cho giao tài sản của mình và chuyển quyền sở hữu cho bên được tặng cho mà không yêu cầu đền bù, bên được tặng cho đồng ý nhận.

Theo quy định tại Điều 458 và Điều 459 Bộ luật Dân sự 2015, thời điểm có hiệu lực của hợp đồng tặng cho bất động sản sẽ tùy thuộc vào đối tượng của hợp đồng là động sản hay bất động sản. Cụ thể như sau: 

- Đối với hợp đồng tặng cho động sản

Hợp đồng tặng cho động sản có hiệu lực kể từ thời điểm bên được tặng cho nhận tài sản, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

Ngoài ra, đối với động sản mà luật có quy định đăng ký quyền sở hữu thì hợp đồng tặng cho có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký.

- Đối với hợp đồng tặng cho bất động sản

Hợp đồng tặng cho bất động sản có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký; nếu bất động sản không phải đăng ký quyền sở hữu thì hợp đồng tặng cho có hiệu lực kể từ thời điểm chuyển giao tài sản.

Hợp đồng tặng cho bất động sản phải được lập thành văn bản có công chứng, chứng thực hoặc phải đăng ký, nếu bất động sản phải đăng ký quyền sở hữu theo quy định của luật.

Lưu ý: Hợp đồng tặng cho bất động sản là một giao dịch dân sự do đó, để đảm bảo hiệu lực của hợp đồng thì phải đáp ứng các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự. Bao gồm: 

- Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập;

- Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;

- Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.

Như vậy, việc tặng cho tài sản chỉ được thực hiện khi có sự thỏa thuận giữa hai bên về việc chuyển giao và nhận tài sản. Đối với hình thức này, quyền sở hữu tài sản của bên nhận tài sản sẽ được xác lập ngay tại thời điểm giao kết hợp đồng hoặc thời điểm đăng ký quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng tài sản theo quy định. 

3. Lập di chúc hay tặng cho tài sản thì người nhận có lợi hơn?

Như phân tích trên, di chúc hay tặng cho tài sản đều là những hình thức chuyển giao tài sản của chủ sở hữu cho một chủ thể khác. Tuy nhiên, xét về bản chất, hai hình thức này lại hoàn toàn khác nhau và có những ưu điểm, nhược điểm riêng biệt. Cụ thể như sau: 

- Ưu và nhược điểm của việc thừa kế theo di chúc

Đối với hình thức này, người lập di chúc có thể đơn phương thể hiện ý chí của mình về việc để lại toàn bộ tài sản cho một hoặc một vài người nhất định. 

Mặt khác, người lập di chúc có thể tự do thay đổi nội dung di chúc của mình bất cứ lúc nào mà không cần phải thực hiện những thủ tục pháp lý tương đối phức tạp. Di chúc hợp pháp được lập cuối cùng sẽ là di chúc có hiệu lực pháp luật khi người lập di chúc chết, những di chúc được lập trước đó sẽ bị vô hiệu. 

Ví dụ: Bố mẹ muốn để lại tài sản cho con thì có thể lập di chúc. Tuy nhiên, sau đó, người con này lại không nuôi dưỡng, chăm sóc cha mẹ thì bố mẹ hoàn toàn có quyền thay đổi nội dung di chúc không cho người con này hưởng tài sản nữa.

Tuy nhiên, việc chuyển giao quyền sở hữu tài sản thông qua di chúc chỉ được thực hiện khi người lập di chúc chết. Tức là, người hưởng di sản thừa kế theo di chúc chỉ được xác lập quyền sở hữu tài sản của mình khi người lập di chúc chết. Do đó, có thể phát sinh một số rủi ro khi có tranh chấp liên quan đến di sản thừa kế. 

Ngoài ra, trong một số trường hợp, người được hưởng thừa kế theo di chúc không bao gồm người được hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc (bao gồm: vợ, chồng, cha, mẹ, con chưa thành niên và con thành niên nhưng không có khả năng lao động) thì đương nhiên di sản sẽ phải được chia cho những người này mà người được hưởng thừa kế theo di chúc sẽ không được hưởng toàn bộ như ý chí của người lập di chúc. 

Nhất là trong trường hợp di sản thừa kế bao gồm quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở thì rất dễ làm phát sinh tranh chấp giữa những người thừa kế. 

Ví dụ: Bố làm di chúc để lại toàn bộ tài sản cho người con duy nhất. Sau khi bố mất đi, người mẹ đương nhiên được hưởng thừa kế một phần đối với di sản mà người bố để lại, trừ trường hợp không có quyền hưởng di sản thừa kế. 

- Ưu và nhược điểm của việc tặng, cho tài sản

Đối với biện pháp này, chủ sở hữu có quyền tặng cho tài sản của mình cho bất kỳ cá nhân, tổ chức nào theo đúng ý chí của mình mà không bị hạn chế quyền. Đồng thời, người nhận tài sản sẽ ngay lập tức được xác lập quyền sở hữu tài sản đối với tài sản từ thời điểm giao kết hợp đồng hoặc thời điểm đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng đối với tài sản. 

Bên cạnh đó, người tặng cho tài sản có quyền đặt ra điều kiện để tặng cho tài sản thông qua hợp đồng tặng cho tài sản có điều kiện. 

Ví dụ: Bố mẹ tặng cho tài sản cho con và đặt ra điều kiện là người con này phải có trách nhiệm nuôi dưỡng, chăm sóc cha mẹ. 

Tuy nhiên, trên thực tế, đa đố các trường hợp khi tặng cho tài sản có điều kiện thì quyền sở hữu đã được xác lập cho người nhận tặng cho tài sản. Do đó, sau khi thực hiện giao dịch, người nhận tặng cho không thực hiện các công việc, nghĩa vụ mà người tặng cho đặt ra thì rất khó có thể hủy hợp đồng tặng cho và đòi lại tài sản của mình nếu người nhận tặng cho không thiện chí hợp tác và có thể làm phát sinh mâu thuẫn, tranh chấp giữa hai bên. 

Ngoài ra, nếu yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp trong trường hợp này, người tặng cho tài sản buộc phải chứng minh về việc người nhận tặng cho tài sản không thực hiện các công việc, nghĩa vụ mà mình đặt ra. Đôi khi, việc chứng minh này rất khó thực hiện. 

Như vậy, dưới góc nhìn của người nhận tài sản thì việc nhận tài sản thông qua hợp đồng tặng, cho tài sản có lợi hơn so với thừa kế theo di chúc vì đối với phương thức này, người nhận tài sản có thể hạn chế tối đa những rủi ro và tranh chấp xảy ra liên quan đến tài sản nhận tặng cho. 

Trân trọng!

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

Liên hệ tư vấn