Khởi kiện chia di sản thừa kế trên thửa đất đang được bồi thường như thế nào?

Luật sư tư vấn về trường hợp: ông nội đã mất, hiện tại đất của ông đang được bồi thường, một trong những người con muốn khởi kiện để nhận một phần di sản thừa kế. Nội dung tư vấn như sau:

Nội dung câu hỏi: Gia đình nội cháu có 12 người con, đã mất 4 người, ông bà nội đã mất. Khi còn sống nội cháu ruộng đất rất nhiều nhưng chỉ chia có các anh em của ba cháu mà không hề cho ba cháu bất cứ món gì. Ba cháu quan điểm mình làm mình ăn chứ không tranh giành một phần thấy xấu hổ vì nhà nội cháu các chú bác vì tranh giành tài sản mà ẩu đả lẫn nhau. Mỗi lần các cô, bác muốn nhờ kí tên để bán đất của nội cho ba cháu cũng kí. Bây giờ ba cháu cũng lớn tuổi, nhà cháu nghèo mà ba cháu cũng bệnh, bây giờ có dự án làm chợ đi qua đám ruộng của nội nên được bồi thường khoảng 780tr. Thế nhưng các anh chị và em của ba thì không muốn chia cho ba, người này đổ cho người kia không muốn chia, rồi người thì nói chỉ chia cho những người còn trong hộ khẩu nhà nội (bao gồm 1 cô và 3 chú), còn ba cháu chỉ nhận được 37tr, hồi nhỏ cháu không biết giờ cháu lớn cháu thấy ba mình chịu quá nhiều thiệt thòi, họ đã đủ đầy mà còn cố bóp chẹt ăn chặn và cuối cùng là họ nói không chia cho ai hết gửi ngân hàng. Ba cháu bệnh, cháu muốn lấy số tiền đó lo cho ba cháu, có người hướng dẫn cháu làm đơn gửi tư pháp nhưng cháu không biết như thế nào để nhanh và đúng quy trình, nếu cơ quan chức năng mời họ đền làm việc mà họ không đến có cưỡng chế được không ạ? Xin hãy giúp cháu. Cháu cảm ơn các cô chú rất nhiều ạ!

 

Trả lời tư vấn: Cảm ơn bạn đã tin tưởng gửi câu hỏi đề nghị tư vấn tới Luật Minh Gia, vấn đề bạn hỏi chúng tôi xin tư vấn như sau:

 

Trong trường hợp này vì bạn có nhắc đến việc lúc còn sống nội của bạn có  ruộng đất rất nhiều nhưng chỉ chia cho các anh em của bố bạn mà không hề cho bố bạn bất cứ món gì. Vậy bạn cần xác định lại xem thời điểm nội bạn còn sống, nội bạn có lập văn bản tặng cho tài sản cho những người con của mình hay không.

 

Trường hợp lúc còn sống nội của bạn đã làm văn bản tặng cho hết tài sản của mình cho những người con còn lại mà không tặng cho bố bạn thì người được tặng cho có quyền sở hữu tài sản tặng cho và bố bạn không được hưởng bất kì tài sản nào. Bởi lẽ đây là quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu tài sản theo quy định tại Điều 457 Bộ luật dân sự 2015:

 

“Điều 457. Hợp đồng tặng cho tài sản

 

Hợp đồng tặng cho tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên tặng cho giao tài sản của mình và chuyển quyền sở hữu cho bên được tặng cho mà không yêu cầu đền bù, bên được tặng cho đồng ý nhận.

 

Trường hợp nội bạn mất để lại di chúc định đoạt tài sản thì di sản thừa kế sẽ được chia theo di chúc. Bố bạn nếu không được nội chia di sản thừa kế thì chỉ được hưởng di sản không phụ thuộc vào nội dung di chúc nếu thuộc trường hợp quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 644 Bộ luật dân sự 2015 như sau:

 

“Điều 644. Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc

 

1. Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó:

 

a) Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;

 

b) Con thành niên mà không có khả năng lao động.

 

2. Quy định tại khoản 1 Điều này không áp dụng đối với người từ chối nhận di sản theo quy định tại Điều 620 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 621 của Bộ luật này.”

 

Như vậy, nếu bố bạn không có khả năng lao động và không thuộc những người không có quyền hưởng di sản theo Khoản 1 Điều 621 ví dụ: vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản, bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng… thì bố bạn vẫn có quyền hưởng 2/3 một suất thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc.

 

Trường hợp nội của bạn mất không để lại di chúc khi đó di sản thừa kế sẽ được chia theo pháp luật. Di sản sẽ được chia thành các phần bằng nhau cho những người thuộc cùng hàng thừa kế. Hàng thừa kế được quy định tại Điều 651 Bộ luật dân sự 2015:

 

“Điều 651. Người thừa kế theo pháp luật

 

1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

 

a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;

 

b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;

 

c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.

 

2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.

 

3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.”

 

Đối chiếu với quy định trên, bố bạn thuộc hàng thừa kế thứ nhất (con ruột của người để lại di sản) nên bố bạn sẽ được hưởng một phần di sản thừa kế bằng phần của những người cùng hàng còn lại. Để bảo vệ quyền lợi của mình, bố bạn có thể khởi kiện ra Tòa án cấp huyện nơi bị đơn cư trú để yêu cầu chia di sản thừa kế. Tuy nhiên bạn cần phải lưu ý thời hiệu chia di sản thừa kế để thực hiện đúng quyền khởi kiện của mình. Thời hiệu thừa kế được quy định tại Điều 623 Bộ luật dân sự 2015 như sau:

 

“1. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó. Trường hợp không có người thừa kế đang quản lý di sản thì di sản được giải quyết như sau:

 

a) Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu theo quy định tại Điều 236 của Bộ luật này;

 

b) Di sản thuộc về Nhà nước, nếu không có người chiếm hữu quy định tại điểm a khoản này.

 

2. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.

 

3. Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.”

 

Trên đây là nội dung tư vấn của Luật Minh Gia về vấn đề bạn yêu cầu tư vấn. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ qua Email hoặc gọi điện đến bộ phận luật sư tư vấn trực tuyến để được giải đáp, hỗ trợ kịp thời.

 

Trân trọng

Phòng tư vấn đất đai – Công ty Luật Minh Gia

 

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

0971.166.169