Cà Thị Phương

Hỏi đáp thắc mắc về tranh chấp quyền sử dụng đất?

Luật sư tư vấn về trường hợp ông nội mất đi, ông có hai mảnh đất và khi mất ông không để lại di chúc, giờ các con của ông tranh chấp về quyền sử dụng đất và làm đơn khởi kiện ra Tòa. Cụ thể như sau:

 

Nội dung tư vấn: Chào luật sư! Em có 1 vụ việc mong được luật sư tư vấn, nội dung cụ thể như sau: Ông nội em sinh năm 1931 kết hôn với vợ cả sinh ra được 5 người con (4 gái, 1 trai) sau khi vợ cả ông mất thì ông lấy vợ 2 là bà nội của em sinh ra được 2 người con (1 trai, 1 gái) đến năm 1975 ông em mất đi để lại 2 mảnh đất nhưng không viết di chúc lại là cho ai cả. Từ ngày ông mất 1 mảnh đất bác trai con vợ cả ở, 1 mảnh đất bà, bố và cô e ở. Đến năm 1988 cô em đi lấy chồng. Năm 2004 bố em có làm sổ đỏ nhưng theo lời bố em thuật lại là ngày đó bố em làm sổ đỏ là bác trưởng xóm cho 1 tờ khai sau khi khai xong mang sang các nhà hàng xóm giáp bên kí rồi nộp 1 ít phí nữa là cấp sổ đỏ cho thôi. Mọi chuyện cứ thế bình thường trôi đi nhưng đến năm 2014 cô em do làm ăn thua lỗ về đòi chia đất nhưng bố em không chia, lợi dụng bà em tuổi cao sức yếu nằm liệt giường cô viết giấy và lăn tay bà nội em lên (gia đình em không biết nội dung giấy viết gì có thể là di chúc cũng có thể là đơn khởi kiện đòi lại quyền sử dụng đất) và bà nội em mất từ đầu năm 2015 rồi, từ đầu năm đến nay gia đình em nhận được rất nhiều giấy mời của toà án về việc giải quyết khởi kiện của cô em nhưng do bố mẹ em không hiểu biết cũng không có chi phí để hỏi luật sư nên không lên toà án lần nào. Vậy em xin hỏi quý luật sư việc năm 2004 bố em làm sổ đỏ như vậy là đúng hay sai và trường hợp cô em khởi kiện như vậy gia đình em cần xử lý như thế nào? Em xin nói rõ luôn là năm 2004 bố em làm sổ đỏ không hề có giấy trao tặng hay mua bán gì của bà nội em cả nhưng bố em là người nộp thuế sử dụng đất từ những năm 1997 đến bây giờ.

 

Trả lời tư vấn: Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đến Công ty Luật Minh Gia, trường hợp của bạn chúng tôi tư vấn như sau:

 

Theo như thông tin bạn đưa ra thì hai mảnh đất tại thời điểm ông nội bạn mất thì chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đến thời điểm năm 2004 bố bạn mới đi kê khai và lúc này được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

 

Xét tại thời điểm khi ông nội bạn lấy bà vợ cả thì không rõ hai mảnh đất này có từ thời điểm nào, trước hay sau khi ông nội bạn lấy bà vợ cả, hay sau khi lấy bà nội bạn. Theo quy định tại Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 thì tại Điều 15 có quy định:

 

Điều 15. Vợ và chồng đều có quyền sở hữu, hưởng thụ và sử dụng ngang nhau đối với tài sản có trước và sau khi cưới.

 

Nếu hai mảnh đất này có trước hoặc sau khi lấy bà vợ cả thì theo quy định này hai mảnh đất này thuộc sở hữu chung của ông nội với bà vợ cả. Do đó khi mà bà vợ cả mất đi thì phần di sản của bà trong khối tài sản chung này phải được chia theo pháp luật.

 

Theo Bộ luật Dân sự năm 1995 (lúc đó đang có hiệu lực) thì những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất bao gồm vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết. Tức là ông nội bạn và 5 người con của bà cả sẽ là những người thừa kế hợp pháp theo pháp luật.

 

Thứ hai, khi ông nội bạn lấy bà nội bạn thì phần tài sản của ông trong khối tài sản chung với bà vợ cả và phần được hưởng từ di sản của bà vợ cả sẽ trở thành khối tài sản chung của ông nội và bà nội bạn (Theo quy định tại Điều 15 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959).

 

Nếu hai mảnh đất này có sau thời điểm bà vợ cả mất thì sẽ không xét đến phần di sản để thừa kế của bà vợ cả, mà hai mảnh đất này chỉ được coi là tài sản chung của ông nội và bà nội bạn. Do đó khi ông nội bạn mất mà không để lại di chúc thì di sản của ông sẽ được chia thừa kế theo pháp luật cho những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất bao gồm vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết, tức là gồm bà nội bạn và 7 người con của ông nội. Khi bố bạn làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (năm 2004) mà chưa có văn bản thỏa thuận chia di sản thừa kế của những người thừa kế hợp pháp khác. Ngoài ra vào thời điểm năm 2004, lúc bố bạn xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì Bộ luật Dân sự năm 1995 đang có hiệu lực. Trong đó không có quy định  rằng nếu hết thời hiệu khởi kiện về thừa kế (10 năm) thì di sản thuộc về người quản lí, do đó mà lúc này bố bạn chưa trở thành người chủ sở hữu hợp pháp đối với mảnh đất trên. Do đó bố bạn làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất như vậy là không đúng theo quy định của pháp luật.

 

Về việc cô bạn có thể đã làm đơn khởi kiện ra Tòa để chia di sản thừa kế thì trước hết cần xem xét đến thời hiện khởi kiện về quyền thừa kế. Theo Bô luật Dân sự năm 1995 thì:

 

Điều 648. Thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế

 

Thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.

 

Bên cạnh đó, theo quy địnht ại Pháp lệnh Thừa kế năm 1990 thì:

 

Điều 36. Thời hiệu khởi kiện về thừa kế

 

1- Trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế, người thừa kế có quyền khởi kiện để yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác.

 

2- Trong thời hạn ba năm, kể từ thời điểm mở thừa kế, cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại, thanh toán các khoản chi từ di sản.

 

3- Trong trường hợp do trở ngại khách quan mà không thể thực hiện được quyền khởi kiện trong thời hạn quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này thì thời gian bị trở ngại khách quan không tính vào thời hiệu khởi kiện.

 

4- Đối với các việc thừa kế đã mở trước ngày ban hành Pháp lệnh này thì thời hạn quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này được tính từ ngày công bố Pháp lệnh này.

 

Theo quy định tại Khoản 4 thì thời điểm để tính thời hiệu thừa kế sẽ là từ năm 1990 khi Pháp lệnh Thừa kế năm 1990 được công bố. Theo luật hiện hành thì thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Như vậy thì thời hiệu để cô bạn khởi kiện quyền thừa kế vẫn còn.

 

Trên đây là nội dung tư vấn của Luật Minh Gia về vấn đề bạn hỏi và quan tâm. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ cần luật sư giải đáp, bạn vui lòng gọi đến Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến của chúng tôi - Số điện thoại liên hệ: 1900.6169 để được hỗ trợ kịp thời.

 

Trân trọng.
CV tư vấn: Nguyễn Hoa - Luật Minh Gia

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

Liên hệ tư vấn