Phạm Diệu

Tư vấn về vấn đề phân chia di sản thừa kế theo pháp luật

Luật sư tư vấn về việc phân chia di sản thừa kế thuộc sở hữu chung hợp nhất của hộ gia đình. Nội dung tư vấn như sau:

 

Nhờ luật sư tư vấn giúp về sự việc của gia đình tôi. Hiên tại bác tôi không có chồng, nhưng co 1 người con trai sinh năm 1985, anh này lấy vợ và có 1 cháu 2 tuổi. Hiện tại anh con trai của bác đã chết được 2 năm, và bây giờ bác muốn bán 1 phần đất bác cùng cháu nội 2 tuổi đang ở, nhưng do sổ đỏ cấp năm 1996 của bác ghi là hộ bà: Vũ Thị Năm ( bác ý tên Năm ) nên bác không đủ quyền pháp lý để đứng ra làm hợp đồng mua bán đất do sổ đỏ lấy tên Hộ Bà nên anh con trai của bác dc hưởng 1 phần tài sản trong đấy. Mong luật sư tư vấn giúp về các thủ tục pháp lý như thế nào để bác gái tôi có thể lập hợp đồng mua bán đất theo đúng pháp luật. Tôi xin chân thành cảm ơn!

 

Trả lời: Cảm ơn anh/chị đã gửi yêu cầu tư vấn tới Công ty Luật Minh Gia. Với trường hợp của anh/chị, chúng tôi tư vấn như sau:

 

Tại Điều 212 Bộ luật dân sự 2015 quy định về sở hữu chung của các thành viên gia đình như sau:

 

“Điều 212. Sở hữu chung của các thành viên gia đình

 

1. Tài sản của các thành viên gia đình cùng sống chung gồm tài sản do các thành viên đóng góp, cùng nhau tạo lập nên và những tài sản khác được xác lập quyền sở hữu theo quy định của Bộ luật này và luật khác có liên quan.

 

2. Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung của các thành viên gia đình được thực hiện theo phương thức thỏa thuận. Trường hợp định đoạt tài sản là bất động sản, động sản có đăng ký, tài sản là nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình phải có sự thỏa thuận của tất cả các thành viên gia đình là người thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp luật có quy định khác.

 

Trường hợp không có thỏa thuận thì áp dụng quy định về sở hữu chung theo phần được quy định tại Bộ luật này và luật khác có liên quan, trừ trường hợp quy định tại Điều 213 của Bộ luật này.”

 

Theo như thông tin anh/chị cho biết, phần đất trên được cấp cho hộ gia đình. Như vậy, đất được cấp cho hộ gia đình thì thuộc quyền sở hữu chung của tất cả các thành viên trong hộ gia đình. Việc xác định những người có quyền đối với quyền sử dụng đất cấp cho hộ gia đình được căn cứ vào sổ hộ khẩu tại thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất; nhận chuyển quyền sử dụng đất. Việc định đoạt quyền sử dụng đất là tài sản của hộ gia đình phải được tất cả các thành viên trong gia đình đồng ý. Vì thế, căn cứ vào thời điểm mảnh đất được cấp sổ đỏ năm 1996, thời điểm này nếu trong sổ hộ khẩu gia đình chỉ có tên người mẹ và người con trai thì mảnh đất đó được coi là tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất giữa hai người.

 

Trường hợp người con trai mất, phần đất thuộc quyền sử dụng đất của người con trai trở thành di sản thừa kế. Nếu không có di chúc, theo pháp luật, di sản thừa sẽ được chia đều cho hàng thừa kế thứ nhất theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 651 Bộ luật dân sự 2015 như sau:

 

“Điều 651. Người thừa kế theo pháp luật

 

1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

 

a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;

…”

Căn cứ quy định trên, phần di sản thừa kế sẽ được chia đều cho hàng thừa kế thứ nhất bao gồm: người mẹ, người vợ và con trai 2 tuổi. Vì vậy trong trường hợp này, người mẹ muốn chuyển nhượng một phần đất thì phải có sự đồng ý của người vợ (con dâu). Việc đồng ý được thể hiện bằng việc người vợ phải cùng có mặt và kí tên vào hợp đồng tại thời điểm công chứng hợp đồng hoặc có văn bản ủy quyền cho người mẹ bán một phần đất. Đối với người con trai 2 tuổi, cần có sự đồng ý của người đại diện theo quy định của pháp luật.

 

Trong trường hợp, người vợ không đồng ý hoặc không ủy quyền cho người mẹ bán một phần đất thì gia đình nên làm đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án phân chia di sản thừa kế theo quy định của pháp luật. Căn cứ tại Điều 660 Bộ luật dân sự 2015 như sau:

 

“Điều 660. Phân chia di sản theo pháp luật

 

1. Khi phân chia di sản, nếu có người thừa kế cùng hàng đã thành thai nhưng chưa sinh ra thì phải dành lại một phần di sản bằng phần mà người thừa kế khác được hưởng để nếu người thừa kế đó còn sống khi sinh ra được hưởng; nếu chết trước khi sinh ra thì những người thừa kế khác được hưởng.

 

2. Những người thừa kế có quyền yêu cầu phân chia di sản bằng hiện vật; nếu không thể chia đều bằng hiện vật thì những người thừa kế có thể thỏa thuận về việc định giá hiện vật và thỏa thuận về người nhận hiện vật; nếu không thỏa thuận được thì hiện vật được bán để chia.”

 

Như vậy, căn cứ quy định trên, sau khi Tòa án phân chia di sản thừa kế, người mẹ gửi hồ sơ thực hiện việc đăng kí biến động đất đai tại Phòng đăng kí đất đai cấp quận (huyện) nơi có đất theo quy định tại khoản 6 Điều 95 Luật đất đai 2013:

 

“6. Các trường hợp đăng ký biến động quy định tại các điểm a, b, h, i, k và l khoản 4 Điều này thì trong thời hạn không quá 30 ngày, kể từ ngày có biến động, người sử dụng đất phải thực hiện thủ tục đăng ký biến động; trường hợp thừa kế quyền sử dụng đất thì thời hạn đăng ký biến động được tính từ ngày phân chia xong quyền sử dụng đất là di sản thừa kế.”

 

Trường hợp, sau khi đã thực hiện xong đăng kí biến động đất đai. Việc mua bán một phần đất sẽ được thực hiện theo trình tự, thủ tục chuyển nhượng thông thường.

 

Trên đây là nội dung tư vấn của Luật Minh Gia về vấn đề anh/chị hỏi và quan tâm. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ cần luật sư giải đáp, anh/chị vui lòng gọi đến Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến của chúng tôi - Số điện thoại liên hệ: 1900.6169 để được hỗ trợ kịp thời.

 

Trân trọng.
CV tư vấn: Phạm Diệu - Luật Minh Gia

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

Liên hệ tư vấn
Chat zalo