Nguyễn Thị Lan Anh

Hỏi về phân chia di sản thừa kế là đất đai

Ông bà nội tôi lập gia đình và được các cụ cho một mảnh đất để làm ăn sinh sống, ông bà sinh được một người con là bố tôi.sau đó ông nội tôi mất. bà đi lấy chồng hai và sinh được thêm hai người con trai,một người con gái và tất cả đều ở trên mảnh đất của các cụ để lại.sau đó ông bà mất không để lại di chúc.

Bố tôi ra ngoài lập nghiệp và giao lại mảnh đất đó cho các chú sử dụng bảo quản và làm nơi thờ cúng. Sau đó bố tôi mất,các chú đã tự ý chia lô đổi đất và làm sổ đỏ mà chưa thông qua các thành viên trong gia đình. Bố tôi là trưởng vì vậy tôi có những quyền hạn,nghĩa vụ gì trên mảnh đất này và có khởi kiện được không …?
 

Trả lời tư vấn: Chào bạn, cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi cho chúng tôi, về câu hỏi của bạn, tôi xin được tư vấn như sau:

 

Ông và bà nội bạn có chung một tài sản là một mảnh đất. Khi Ông nội bạn mất, chúng tôi giả sử ông nội bạn không để lại di chúc thì chiếu theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015 thì tài sản của ông nội bạn sẽ được phân chia theo quy định thừa kế theo pháp luật (Điều 650). căn nhà này sẽ được chia theo pháp luật như sau: Bà nội bạn được 3/4 giá trị mảnh đất và bố bạn được 1/4 giá trị mảnh đất.

 

Bà nội của bạn kết hôn với người khác và sinh được thêm hai người con trai,một người con gái và tất cả đều ở trên mảnh đất của các cụ để lại. Do vậy, phần tài sản từ trước thời kỳ hôn nhân cuả bà nội bạn là 3/4 giá trị của mảnh đất đó, do không có thảa thuận về tài sản chung giữa bà nội bạn và chồng hai của bà bạn nên 3/4 giá trị mảnh đất ấy là tài sản riêng của bà nội bạn.

 

Khi bà nội bạn mất và ông mất không có di chúc. Khi đó phần tài sản 3/4 mảnh đất này sẽ được chia làm 4 phần bằng nhau cho hai người con trai,một người con gái  và bố của bạn, mỗi người 3/16 giá trị mảnh đất. Vậy bố bạn sẽ có 1/4 + 3/16= 7/16 giá trị của mảnh đất.

 

Trong trường hợp người mất không để lại di chúc thì việc phân chia di sản thừa kế sẽ theo quy định của pháp luật. Cụ thể nguyên tắc phân chia được quy định tại điều 651 Bộ luật dân sự 2015:

 

“1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

 

a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;

 

b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;

 

c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.

 

2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.

 

3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.”

 

Trong trường hợp của bạn,  đối với di sản mà bố bạn để 7/16 giá trị của mảnh đất thì khi bố bạn mất không để lại di chúc thì những người được hưởng thừa kế theo pháp luật bao gồm mẹ bạn và bạn. Như vậy bạn cũng có quyền và nghĩa vụ đối với mảnh đất đó.

 

Các chú đã tự ý chia lô đổi đất và làm sổ đỏ mà chưa thông qua các thành viên trong gia đình, trong đó có cô bạn (người con gái của bà nội bạn), chồng hai của bà bạn và mẹ bạn cùng với bạn cũng là những người được hưởng thừa kế theo pháp luật đối với mảnh đất như tôi đã phân tích ở trên. Vì vậy việc làm của hai chú bạn như vậy là không hợp pháp và vi phạm quy định tại Điều 656 BLDS năm 2015 quy định Họp mặt những người thừa kế như sau:

 

“1. Sau khi có thông báo về việc mở thừa kế hoặc di chúc được công bố, những người thừa kế có thể họp mặt để thỏa thuận những việc sau đây:

 

a) Cử người quản lý di sản, người phân chia di sản, xác định quyền, nghĩa vụ của những người này, nếu người để lại di sản không chỉ định trong di chúc;

 

b) Cách thức phân chia di sản.

 

2. Mọi thỏa thuận của những người thừa kế phải được lập thành văn bản.”

 

Về thời hiệu khởi kiện:

 

Theo Điều 623 BLDS năm 2015 quy định Thời hiệu khởi kiện về thừa kế như sau:

 

“1. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó. Trường hợp không có người thừa kế đang quản lý di sản thì di sản được giải quyết như sau:

 

a) Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu theo quy định tại Điều 236 của Bộ luật này;

 

b) Di sản thuộc về Nhà nước, nếu không có người chiếm hữu quy định tại điểm a khoản này.

 

2. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.

 

3. Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.”

 

Như vậy, sau khi hết thời hiệu 30 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế thì cá nhân, tổ chức không được yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hay bác bỏ quyền thừa kế của người khác, kể từ thời điểm mở thừa kế thì cá nhân, tổ chức không còn quyền yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản của người chết. Hiện tại gia đình bạn vẫn còn trong thời hiệu khởi kiện nên gia đình bạn có thể nộp đơn yêu cầu phân chia di sản thừa kế đến Tòa án nhân dân cấp huyện nơi có bất động sản.

 

Trên đây là nội dung tư vấn của Luật Minh Gia về vấn đề bạn yêu cầu tư vấn: Hỏi về phân chia di sản thừa kế là đất đai. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ qua Email hoặc gọi điện đến bộ phận luật sư tư vấn thừa kế trực tuyến - Số điện thoại liên hệ 1900.6169 để được giải đáp, hỗ trợ kịp thời.

 

Trân trọng

CV. Lưu Hải - Công Ty Luật Minh Gia

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

Liên hệ tư vấn
Chat zalo