Hết thời hiệu thừa kế có thể khởi kiện phân chia di sản không?

Luật sư tư vấn vấn đề thời hiệu thừa kế và yêu cầu tòa án áp dụng thời hiệu thừa kế trong vụ án dân sự. Nội dung tư vấn như sau:

 Nội dung câu hỏi:

 

E chào luật sư, e có vấn để cần nhờ LS tư vấn và hướng dẫn ạ. Vấn đề của e là: cụ nội e đã mất cách đây 42 năm. Cụ nội e sinh được 2 người con: một trai và 1 gái. Người con trai lấy vợ và sinh được một cô con gái tên M, sau đó bố cô M đi bộ đội và hy sinh, được phong tặng liệt sĩ (hiện nay). Người con gái lấy chồng, sinh được 3 con trai và 1 con gái. Là ông bà nội e hiện tại. Vì anh trai hy sinh ngoài chiến trường, nên người con gái vừa ở nhà chồng và vừa qua lại ở nhà bố đẻ chăm sóc (tức là Cụ nội em),  đồng thời nuôi con gái của anh trai tên M để vợ anh trai đi lấy chồng khác đến khi cô M đi học trưởng thành và lập gia đình. Trước khi mất, cụ nội em giao bằng miệng toàn bộ đất cho vợ chồng người con gái (ông Ba nội em bây giờ )trông coi,  thờ cúng cụ và người anh liệt sỹ. Khi các con của ông bà nội em trưởng thành, lấy vợ thì Số đất này được ông Bà nội em chia cho 2 người con trai (vì 1 người con trai út ở đất của bố, tức là ông nội em, người con gái đi lấy chồng). Mỗi người 1 nửa. Vì hai anh em sống cạnh nhau không hoà thuận, nên người anh hiện tại là bố mẹ em đã mua cho người em 1 mảnh đất khác để chuyển ra đó sinh sống. Như vậy toàn bộ số đất chia cho 2 anh em thì hiện tại đứng tên chủ sở hữu đất là bố em, có bìa đỏ mang tên bố em. Bà nội em đã mất cách đây 9 năm và ông nội e vẫn còn sống đang ở cùng với người con trai út. Hiện tại phát sinh vấn đề là người con gái tên M, con gái của con trai liệt sỹ đang có ý định  khởi kiện nhà em ra toà đòi chia lại phần đất thuộc về cô M. Và nói theo luật dân sự mới 2015 thì cô ấy hoàn toàn có quyền khởi kiệnVậy em xin hỏi luật sư là cô M có quyền khởi kiện nhà em không? Và nhờ LS tư vấn trường hợp này nhà em nên giải quyết như nào? Em cảm ơn 

 

Trả lời: Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi cần tư vấn tới Công ty Luật Minh Gia, với thắc mắc của bạn chúng tôi tư vấn như sau:

 

Trả lời: Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi cần tư vấn tới Công ty Luật Minh Gia, với thắc mắc của bạn chúng tôi tư vấn như sau:

 

Thứ nhất, về vấn đề thời hiệu chia thừa kế:

 

“Điều 623. Thời hiệu thừa kế

 

1. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó. Trường hợp không có người thừa kế đang quản lý di sản thì di sản được giải quyết như sau:

 

a) Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu theo quy định tại Điều 236 của Bộ luật này;

 

b) Di sản thuộc về Nhà nước, nếu không có người chiếm hữu quy định tại điểm a khoản này.

 

2. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.

 

3. Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.”

 

Tuy nhiên, điểm a khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao về thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế quy định  quy định:

 

“a) Đối với trường hợp thừa kế mở trước ngày 01/7/1996, thì thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế được thực hiện theo quy định tại Điều 36 của Pháp lệnh Thừa kế năm 1990 và hướng dẫn tại Nghị quyết 02/HĐTP ngày 19/10/1990 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao "hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh Thừa kế".

 

Khi xác định thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế mà thời điểm mở thừa kế trước ngày 01/7/1991 và di sản là nhà ở thì thời gian từ ngày 01/7/1996 đến ngày 01/01/1999 không tính vào thời hiệu khởi kiện.”

 

Điều 36 pháp lệnh thừa kế 1990 quy định như sau:

 

“Điều 36: Thời hiệu khởi kiện về thừa kế

 

1- Trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế, người thừa kế có quyền khởi kiện để yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác.

 

2- Trong thời hạn ba năm, kể từ thời điểm mở thừa kế, cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại, thanh toán các khoản chi từ di sản.

 

3- Trong trường hợp do trở ngại khách quan mà không thể thực hiện được quyền khởi kiện trong thời hạn quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này thì thời gian bị trở ngại khách quan không tính vào thời hiệu khởi kiện.

 

4- Đối với các việc thừa kế đã mở trước ngày ban hành Pháp lệnh này thì thời hạn quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này được tính từ ngày công bố Pháp lệnh này.”

 

Như vậy, theo quy định của pháp luật, thời hiệu khởi kiện chia thừa kế trong trường hợp trên vẫn còn và cô M hoàn toàn có thể đòi phân chia di sản thừa kế.

 

Thứ hai, về vấn đề phân chia di sản thừa kế, theo quy định của pháp luật nếu người để lại di sản không có di chúc thì di sản sẽ được phân chia như sau:

 

“1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

 

a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;

 

b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;

 

c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.

 

2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.

 

3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.”

 

Như vậy, bố cô M được nhận một phần di sản thừa kế bằng với phần bà nội bạn theo quy định của pháp luật nếu người để lại di sản không có di chúc hoặc di chúc không hợp pháp. Tuy nhiên bố cô M chết trước người để lại di sản nên cô M là người thừa kế thế vị với phần bố cô M được hưởng.

 

Thứ ba, về vấn đề quyền sử dụng đất:

 

Điều 106 Luật Đất đai về thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quy định:

 

Điều 106. Đính chính, thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp

....

2. Nhà nước thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp trong các trường hợp sau đây:

 

a) Nhà nước thu hồi toàn bộ diện tích đất trên Giấy chứng nhận đã cấp;

 

b) Cấp đổi Giấy chứng nhận đã cấp;

 

c) Người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất đăng ký biến động đất đai, tài sản gắn liền với đất mà phải cấp mới Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất;

 

d) Giấy chứng nhận đã cấp không đúng thẩm quyền, không đúng đối tượng sử dụng đất, không đúng diện tích đất, không đủ điều kiện được cấp, không đúng mục đích sử dụng đất hoặc thời hạn sử dụng đất hoặc nguồn gốc sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai, trừ trường hợp người được cấp Giấy chứng nhận đó đã thực hiện chuyển quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất theo quy định của pháp luật đất đai.

 

3. Việc thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp đối với trường hợp quy định tại điểm d khoản 2 Điều này do cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất quy định tại Điều 105 của Luật này quyết định sau khi đã có kết luận của cơ quan thanh tra cùng cấp, văn bản có hiệu lực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về giải quyết tranh chấp đất đai.”

 

Đối với trường hợp trên, cô M có thể yêu cầy Ủy ban nhân dân cấp huyện thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc khởi kiện yêu cầu tòa án giải quyết về vấn đề phân chia di sản thừa kế của người để lại di sản. Bạn và người thân của bạn có thể thỏa thuận với cô M để phân chia di sản thừa kế hoặc thanh toán cho cô M số tiền tương ứng với phần di sản được hưởng.

 

Trên đây là nội dung tư vấn của Luật Minh Gia về vấn đề mà bạn đã gửi đề nghị tư vấn. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ qua Email hoặc gọi điện đến bộ phận luật sư tư vấn trực tuyến - Số điện thoại liên hệ 1900.6169 để được giải đáp, hỗ trợ kịp thời.

         

Trân trọng

CV Văn Cảnh -  Công ty Luật Minh Gia

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

0971.166.169