Luật sư Việt Dũng

Di chúc không hợp pháp khi nào?

Gửi văn phòng luật sư ! Cho tôi hỏi luật sư một vấn đề về di chúc như sau: gia đình đời ba tôi có 3 anh em trai và 3 anh em gái, lúc bà nội tôi mất năm 2000 có di chúc miệng lại và không có người làm chứng là chia phần đất cho 3 anh em trai, còn con gái thì đã có gia đình ở riêng nên không chia.

Lúc đó 3 anh em trai của ba tôi đã phân chia rõ ràng, ba tôi là con cả nên ở phần nhà thờ cúng ông bà cũng gọi là nhà từ đường, còn 2 chú thì chia 2 lô gần sát bên, nhưng chưa làm giấy tờ nhà, sổ đỏ. Ba của tôi có 1 người con trai và 2 con gái. Chú nhỏ có 4 người con trai, chú út có 4 người con trai. Hiện nay anh trai tôi- con trai duy nhất của ba tôi cũng là cháu đích tôn vừa mất. Anh cũng chỉ có 2 bé gái còn nhỏ. Các cô và các chú tôi có ý định họp lại phân chia nhà tôi ra cho các con của chú tôi vì nghĩ rằng nhà tôi là nhà từ đường mà lại không có ai nối dõi tông đường. Nay cho tôi hỏi nhà tôi có bị phân chia được không? Và hiện tại nhà tôi (nhà 2 chú tôi nữa )chưa có sổ đỏ, nếu muốn làm sổ đỏ thì cần thủ tục gì để giữ lại căn nhà? Kính nhờ văn phòng luật sư tư vấn giúp ạ.

Trả lời:

Cảm ơn bạn đã tin tưởng gửi yêu cầu tư vấn đến công ty Luật Minh Gia với vụ việc của bạn chúng tôi có quan điểm tư vấn như sau:

Trước hết phải xem xét người bà có quyền định đoạt tất cả tài sản này hay không. Sở dĩ di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết. Do vậy cần phải xác định rõ phần tài sản của người bà nói lại để chia cho ba người con, trong trường hợp phần tài sản này đều thuộc sở hữu của bà  có thể thông  qua việc đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì người bà sẽ được chuyển  tài sản cho những người con của mình, còn trường hợp phần đất này là tài sản chung của hộ gia đình  hoặc tài sản chung khác mà người bà chỉ có một phần trong tổng tài sản này thì người bà chỉ được lập di chúc định đoạt phần thuộc sở hữu của mình cho những người con. Vì thế để định đoạt để lại phần đất cho con cái buộc phần đất này phải thuộc sở hữu của người bà, sau khi xác định số di sản để phân chia thừa kế mà người bà lại chỉ để lại di chúc miệng nên chúng tôi phân chia ra 2 trường hợp như sau:

Thứ nhất, theo quy định tại điều 630 Bộ luật Dân sự năm 2015, một di chúc được coi là hợp pháp có nội dung như sau:

1. Di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:

a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép;

b) Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của luật.

2. Di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được lập thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc.

3. Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.

4. Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều này.

5. Di chúc miệng được coi là hợp pháp nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau khi người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng, người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng thực xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng.

Do vậy để di chúc miệng được coi là hợp pháp nếu có ít nhất là hai người làm chứng và sau đó được người làm chứng ghi chép lại cùng ký tên. Đồng thời trong thời hạn 5 ngày làm việc thì bản di chúc được ghi chép lại đó sẽ phải được công chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng thực xác nhận chữ ký của người  làm chứng.

Theo thông tin bạn cung cấp gia đình bạn đã thỏa thuận phân chia di sản thừa kế cho ba người con trai theo như nội dung di chúc để lại. Việc thỏa thuận chia thừa kế phải được lập thành văn bản theo quy định tại điều 656 Bộ luật Dân sự năm 2015

1. Sau khi có thông báo về việc mở thừa kế hoặc di chúc được công bố, những người thừa kế có thể họp mặt để thỏa thuận những việc sau đây:

a) Cử người quản lý di sản, người phân chia di sản, xác định quyền, nghĩa vụ của những người này, nếu người để lại di sản không chỉ định trong di chúc;

b) Cách thức phân chia di sản.

2. Mọi thỏa thuận của những người thừa kế phải được lập thành văn bản.

Thêm nữa, theo điều 645 Bộ luật Dân sự năm 2015 có quy định như sau:

Trường hợp người lập di chúc để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng thì phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho người đã được chỉ định trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng; nếu người được chỉ định không thực hiện đúng di chúc hoặc không theo thỏa thuận của những người thừa kế thì những người thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho người khác quản lý để thờ cúng.

Trong trường hợp đây là di chúc hợp pháp và các bên đã thỏa thuận phân chia di sản theo nội dung di chúc thì lúc này gia đình người cô, chú không thể yêu cầu chia lại di sản thừa kế. Đồng thời vì phần đất được giao cho bố bạn là nhà từ đường nên không được thực hiện việc chia phần nhà này. 

Thứ hai, trong trường hợp di chúc miệng này không hợp pháp như quy định ở trên đã trình bày thì di chúc này không được coi là hợp pháp. Do đó gia đình người cô, chú có quyền để yêu cầu chia lại di sản thừa kế. Khi này việc chia di sản thừa kế sẽ được chia theo pháp luật không phụ thuộc vào việc phân chia từ trước. Khi chia di sản thừa kế theo pháp luật sẽ xem những người thuộc diện được hưởng thừa kế theo quy định tại điều 651 Bộ luật Dân sự năm 2015 

1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;

b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;

c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.

2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.

3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.

Như vậy khi này những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất bao gồm những người con của bà không phân biệt trai hay gái đều được chia di sản mà bà để lại, mỗi người hưởng  một phần bằng nhau. Mà theo thông tin bạn cung cấp bà mất năm 2000 nên đến thời điểm hiện tại chưa hết thời hiệu mở thừa kế ( theo quy định tại điều 623 Bọ luật dân sự năm 2015 thì thời hiệu để người thừa kế yêu cầu mở thừa kế là 30 năm đối với bất động sản) Do vậy khi này người cô, người chú vì họ thuộc diện người thừa kế nên họ có quyền yêu cầu mở thừa kế để chia di sản này. 

Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với đất từ đường  được quy định tại điều 100 Luật đất đai năm 2013 như sau: 

 “Cộng đồng dân cư đang sử dụng đất có công trình là đình, đền, miếu, am, từ đường, nhà thờ họ; đất nông nghiệp quy định tại khoản 3 Điều 131 của Luật này và đất đó không có tranh chấp, được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất xác nhận là đất sử dụng chung cho cộng đồng thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.”.

Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho cộng đồng dân cư được thực hiện theo nguyên tắc Cộng đồng dân cư đang sử dụng đất có công trình là đình, đền, miếu, am, từ đường, nhà thờ họ không có tranh chấp, được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất xác nhận là đất sử dụng chung cho cộng đồng thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.

Hiện nay, đất nhà thờ của dòng họ bạn không có tranh chấp, sử dụng lâu dài và nếu được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất xác nhận là đất sử dụng chung cho cộng đồng thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Nếu đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng  đất cho dòng họ nêu trên thì trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sẽ ghi tên của dòng họ đó và có thể còn ghi tên người đại diện.

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

Liên hệ tư vấn