Chuyển tiền vay qua tài khoản có đòi được không?
Đầu tháng 7 năm 2016, tôi khởi kiện ra tòa và đã nộp án phí, tòa án đã thụ lý vụ án. Nhưng lần làm việc đầu tiên thẩm phán nói: Nếu không có tài liệu chứng minh là đã đòi tiền nhưng anh A không trả thì phải rút đơn để đình chỉ vụ án. Khi nào có tài liệu thể hiện việc đã đòi tiền mà anh A không trả mới có thể khởi kiện. Xin hỏi tôi có phải làm theo yêu cầu của thẩm phán không? và cách củng cố để có căn cứ là đã đồi tiền anh A như thế nào? Xin trân thành cảm ơn các Luật sư.
Trả lời tư vấn: Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi đề nghị tư vấn đến Công ty Luật Minh Gia, trường hợp của bạn chúng tôi tư vấn như sau:
Theo quy định tại Điều 471 Bộ luật dân sự 2005:
Hợp đồng vay tài sản là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định.
Pháp luật hiện hành không yêu cầu cụ thể về hình thức của hợp đồng vay tài sản. Do đó, theo quy định tại Khoản 1 Điều 124 Bộ luật dân sự 2005 thì "Giao dịch dân sự được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể".
Trường hợp của bạn tuy không có hợp đồng bằng văn bản, chỉ có ủy nhiệm chi của ngân hàng. Tuy nhiên, giấy này chỉ chứng minh việc bạn chuyển khoản tiền đó cho người vay tiền. Khi chuyển tiền thì bạn có ủy nhiệm chi, thông tin và số tài khoản người nhận ủy nhiệm chi và trong phần ghi chú của ủy nhiệm chi có thể hiện về vấn đề lãi suất. Như vậy, cũng là những căn cứ để xác định hai bên có phát sinh giao dịch vay tài sản. Nếu bạn muốn khởi kiện, cần phải cung cấp đầy đủ chứng cứ để Tòa án có cơ sở thụ lý và giải quyết cho bạn.
Theo Điều 91 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 thì khi bạn khởi kiện thì cần phải đưa ra chứng cứ chứng minh căn cứ khởi kiện là có cơ sở.
Điều 91. Nghĩa vụ chứng minh.
1. Đương sự có yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp, trừ các trường hợp sau đây:
a) Người tiêu dùng khởi kiện không có nghĩa vụ chứng minh lỗi của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ bị kiện có nghĩa vụ chứng minh mình không có lỗi gây ra thiệt hại theo quy định của Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng;
b) Đương sự là người lao động trong vụ án lao động mà không cung cấp, giao nộp được cho Tòa án tài liệu, chứng cứ vì lý do tài liệu, chứng cứ đó đang do người sử dụng lao động quản lý, lưu giữ thì người sử dụng lao động có trách nhiệm cung cấp, giao nộp tài liệu, chứng cứ đó cho Tòa án.
Người lao động khởi kiện vụ án đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động thuộc trường hợp người sử dụng lao động không được thực hiện quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động hoặc trường hợp không được xử lý kỷ luật lao động đối với người lao động theo quy định của pháp luật về lao động thì nghĩa vụ chứng minh thuộc về người sử dụng lao động;
c) Các trường hợp pháp luật cóu quy định khác về nghĩa vụ chứng minh.
4. Đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì Tòa án giải quyết vụ việc dân sự theo những chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ việc
Như vậy yêu cầu của thẩm phán có có căn cứ pháp luật.
Theo Điều 94, Bộ luật tố tụng dân sự 2015, công nhận nguồn chứng cứ mới là dữ liệu điện tử. Vậy bạn có thể cung cấp thêm các tài liệu, chứng chứ khác như tin nhắn, file ghi âm cuộc gọi, tin nhắn, hay liên lạc qua mail… hoặc có người làm chứng về việc cho vay của bạn.
Trên đây là nội dung tư vấn của Luật Minh Gia về vấn đề bạn yêu cầu tư vấn: Chuyển tiền vay qua tài khoản có đòi được không?. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ qua Email hoặc gọi điện đến bộ phận luật sư tư vấn trực tuyến - Số điện thoại liên hệ 1900.6169 để được giải đáp, hỗ trợ kịp thời. Trân trọng
Cv Nguyễn Thị Thùy Dương - Công ty Luật Minh Gia
Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất