Chuyển nhượng tài sản thừa kế cần thủ tục gì?

Việc chuyển nhượng tài sản liên quan đến thừa kế, tài sản chung vợ chồng đòi hỏi phải có sự phân định rõ ràng về quyền sở hữu, đảm bảo đúng thẩm quyền để quá trình chuyển giao đúng quy định pháp luật. Điều này sẽ giúp các chủ thể sở hữu tránh được rủi ro hoặc tranh chấp có thể xảy ra. Cụ thể quy định này được thực hiện như thế nào, bạn đọc có thể tham khảo nội dung tư vấn sau của công ty Luật Minh Gia.

 Câu hỏi:

Kính gửi Cty Luật Minh Gia, Tôi năm nay 83 tuổi, hiện sở hữu một ngôi nhà có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên tôi và vợ tôi (đã mất năm 2008). Chúng tôi đã có di chúc viết năm 2005 về phân chia tài sản thừa kế cho các con (bản di chúc chưa có công chứng). Nay vì lí do sức khỏe, tôi muốn bán ngôi nhà đang ở để về sống với một trong các con và thực hiện chia tài sản thừa kế theo đúng di chúc 2005. Tuy nhiên 1 trong số 5 người con của tôi đã không hợp tác, không chịu ký vào bản ủy quyền cho bố bán nhà. Vậy xin hỏi tôi có thể đứng ra bán căn nhà được không, nếu được thì các thủ tục pháp lý sẽ như thế nào? Xin trân trọng cảm ơn quý Văn phòng!

Trả lời:

Cảm ơn bác đã tin tưởng và gửi yêu cầu tới công ty Luật Minh Gia! Sau đây, chúng tôi xin tư vấn yêu cầu của bác như sau:

Trước hết, chúng tôi sẽ phân tích về hiệu lực pháp lý của bản di chúc mà vợ chồng bác đã lập. Do bản di chúc chưa có công chứng nên có thể xảy ra 2 trường hợp:

Trường hợp 1: Chuyển nhượng tài sản khi di chúc vô hiệu

Nếu di chúc không được coi là hợp pháp thì di sản thừa kế sẽ được chia theo pháp luật, theo đó khi vợ bác mất thì những người cùng hàng thừa kế sẽ được hưởng một phần bằng nhau chia từ di sản thừa kế của vợ bác (di sản của vợ bác được xác định là 1/2 khối tài sản chung của vợ chồng bác).

Căn cứ Điều 651 Bộ luật dân sự 2015:

“Điều 651. Người thừa kế theo pháp luật

1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;

b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;

c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.

2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.

3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.”

Như vậy, di sản thừa kế của vợ bác (1/2 tài sản chung) sẽ được chia đều cho bác cùng với 5 người con, mỗi người được hưởng một phần bằng nhau.

Trường hợp 2: Chuyển nhượng khi di chúc có hiệu lực pháp luật

Theo quy định tại khoản 1 và khoản 4 điều 630 Bộ luật Dân sự 2015, trường hợp di chúc không có công chứng nhưng vẫn được coi là hợp pháp khi đáp ứng đủ các điều kiện sau:

"Điều 630. Di chúc hợp pháp

1. Di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:

a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép;

b) Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của luật.

4. Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều này.”

Trong trường hợp này, chúng tôi tạm coi di chúc của bác đã đáp ứng đầy đủ các điều kiện nêu trên. Tuy nhiên, vì đây là di chúc chung của vợ chồng và đã được lập từ năm 2005 nên hiệu lực của di chúc sẽ áp dụng theo quy định của Bộ luật dân sự 2005, theo khoản 1 điều 688 Bộ luật Dân sự 2015:

"Điều 688. Điều khoản chuyển tiếp

1. Đối với giao dịch dân sự được xác lập trước ngày Bộ luật này có hiệu lực thì việc áp dụng pháp luật được quy định như sau:

a) Giao dịch dân sự chưa được thực hiện mà có nội dung, hình thức khác với quy định của Bộ luật này thì chủ thể giao dịch tiếp tục thực hiện theo quy định của Bộ luật dân sự số 33/2005/QH11 và các văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết Bộ luật dân sự số 33/2005/QH11, trừ trường hợp các bên của giao dịch dân sự có thỏa thuận về việc sửa đổi, bổ sung nội dung, hình thức của giao dịch để phù hợp với Bộ luật này và để áp dụng quy định của Bộ luật này.”

Quy định về hiệu lực của di chúc chung của vợ, chồng theo Bộ luật dân sự 2005 như sau:

Điều 668. Hiệu lực pháp luật của di chúc chung của vợ, chồng 

Di chúc chung của vợ, chồng có hiệu lực từ thời điểm người sau cùng chết hoặc tại thời điểm vợ, chồng cùng chết.

Theo đó, chỉ khi cả vợ chồng lập di chúc chung đều qua đời thì di chúc chung mới có hiệu lực pháp luật, tuy nhiên sau khi vợ bác qua đời thì bác vẫn có quyền thay đổi di chúc liên quan đến phần tài sản của mình. Đối với trường hợp của bác, di chúc hiện nay vẫn chưa thể thực hiện toàn bộ, vì vậy bác chỉ có quyền định đoạt đối với một nửa giá trị căn nhà. Phần còn lại thuộc di sản của vợ bác sẽ được áp dụng pháp luật về thừa kế để giải quyết (thừa kế theo di chúc hoặc thừa kế theo pháp luật).

Như vậy, di chúc thuộc trường hợp nào thì người con đó của bác cũng có quyền đối với một phần di sản của mẹ tức vợ bác. Trong trường hợp này, bác có thể thỏa thuận với các con về việc phân chia di sản thừa kế hoặc khởi kiện tại tòa án để yêu cầu giải quyết phân chia di sản thừa kế.

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

0971.166.169