LS Trần Liên

Chia tài sản thừa kế không có di chúc

Luật Minh Gia cho tôi hỏi về Chia di sản thừa kế trong trường hợp người chết không có di chúc như sau: Nhà nội tôi có 7 anh em và một mãnh đất anh em sống chung. Ba tôi, bác 3 và chú 6 của tôi được ông nội khi còn sống cho mỗi người một khoảng đất trên mảnh đất để xây nhà ở. Hai người cô tôi thì đã có chồng, chú 5 tôi thì đã chuyển lên thành phố sống hơn 10 năm và không ở trên khoảng đất chung của nhà nội tôi nữa.

 

Chú 7 của tôi thì ở chung nhà thờ khi ông bà nội tôi còn sống. Khoảng đất còn lại trong mảnh đất ông nội tôi giao cho anh em ba tôi tự quyền sản xuất chăn nuôi. Khi ông bà nội tôi mất không để lại di chúc vì muốn anh em ba tôi sống chung hòa thuận. Nhưng khi vừa hết tang ông nội tôi thì người chú 5 đã đòi phân chia tài sản và đòi lấy phần đất mà chú 6 tôi đã chăn nuôi bò hơn 20 năm. Tất nhiên là chú 6 tôi không đồng ý và vụ việc được đưa lên ủy ban giải quyết. Sau nhiều lần giải hòa thì người chú 5 lại vẽ ra một bản vẽ phân chia và muốn chia đều tất cả phần đất ông nội tôi để lại, trong đó có đề cập là phần công trình dư trên phân đất đã chia sẽ bị tự đập, và theo bản vẽ đó thì nhà tôi phải tự phá hủy vào hơn 2 mét chiều rộng rồi tự xây lại. Xin luật sư giải đáp thắc mắc giúp tôi là việc làm của người chú 5 có đúng quy định pháp luật không. Và việc bản vẽ đó có được chấp nhận hay không khi nhà tôi được ông bà nội giao khoảng đất xây nhà và có giấy tờ xin phép xây nhà hơn 10 năm nay. Rất mong được luật sư giải đáp thắc mắc và xin cảm ơn.

 

Trả lời:

 

Chào bạn, cảm ơn bạn đã yêu cầu tới Công ty Luật Minh Gia, trường hợp của bạn chúng tôi tư vấn như sau:

 

- Thứ nhất, về việc hai ông bà cho đất các con

 

Bạn cần xem xét việc tặng cho này có bằng văn bản và xác nhận của UBND hay không. Nếu việc tặng cho này bằng văn bản và có xác nhận của UBND thì quyền sử dụng diện tích đất mà ông bà được cho đã chuyển giao cho những người được nhận đó. Khi ông bà mất thì những phần diện tích đã cho không được tính vào di sản thừa kế của ông bà.

 

Nếu việc cho đất này không có văn bản và không có xác nhận của UBND xã thì mảnh đất đó vẫn thuộc quyền sử dụng của ông  bà. Khi đó ông bà mất và không có di chúc thì mảnh đất đó sẽ được chia theo pháp luật.

 

- Thứ hai, việc chia di sản thừa kế

 

Theo quy định tại Điều 651 Bộ luật dân sự 2015 như sau:

 

“Điều 651. Người thừa kế theo pháp luật

 

1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

 

a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;

…”.

 

Theo đó, mảnh đất của ông bà sẽ được chia đều cho những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất. Khi ông bà mất không để lại di chúc thì các đồng thừa kế làm văn bản thỏa thuận phân chia di sản. Nếu không thỏa thuận được về phần hưởng với nhau thì buộc phải chia đều.

 

Tuy nhiên, vấn đề phát sinh là giải quyết tài sản trên đất. Hiện nay bạn cung cấp nếu chia đều thì phần tài sản dư trên đất sẽ phải đập đi. Gia đình bạn có thể thương lượng với  nhau để có thể mua lại phần đất có tài sản dư trên đó để giải quyết cho hợp lí.

 

Căn cứ tại Điều 623 Bộ luật dân sự 2015 quy định về thời hiệu thừa kế như sau:

 

Điều 623. Thời hiệu thừa kế

 

1. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó. Trường hợp không có người thừa kế đang quản lý di sản thì di sản được giải quyết như sau:

 

a) Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu theo quy định tại Điều 236 của Bộ luật này;

 

b) Di sản thuộc về Nhà nước, nếu không có người chiếm hữu quy định tại điểm a khoản này.

 

2. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.

 

3. Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.”.

 

Như vậy, theo quy định trên thì thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Khi hết thời hạn trên thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó.

 

Vì bạn không đề cập tới việc ông bà mất năm bao nhiêu? Do vậy, căn cứ tại công văn số: 01/GĐ-TANDTC có quy định như sau:

 

“Tòa án áp dụng khoản 1 Điều 623 Bộ luật Dân sự năm 2015 về thời hiệu thừa kế để thụ lý, giải quyết vụ án dân sự "Tranh chấp về thừa kế tài sản”. Theo đó, thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản kể từ thời điểm mở thừa kế.

 

Đối với trường hợp thừa kế mở trước ngày 10-9-1990 thì thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế là bất động sản được thực hiện theo quy định tại Điều 36 của Pháp lệnh Thừa kế năm 1990 và hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 19-10-1990 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh Thừa kế, cụ thể là: thời hiệu khởi kiện được tính từ ngày 10-9-1990.”.

 

Do vậy, tính từ năm 1990 đến thời điểm hiện tại (2018) vẫn còn thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia thừa kế, nên gia đình bạn có thể gửi đơn đến Tòa yêu cầu phân chia di sản thừa kế mà ông bà nội bạn để lại.

 

Trên đây là nội dung tư vấn của Luật Minh Gia về vấn đề bạn yêu cầu tư vấn: Chia tài sản thừa kế không có di chúc. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ bộ phận luật sư tư vấn luật Dân sự trực tuyến - Số điện thoại: 1900.6169 để được giải đáp, hỗ trợ kịp thời.

 

Trân trọng
CV.Trần Liên – Công ty Luật Minh Gia.

 

 

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

0971.166.169