Nguyễn Thu Trang

Vi phạm pháp luật là gì? Xử lý vi phạm pháp luật?

Ngày nay, cùng với sự phát triển của đời sống xã hội, nhận thức của con người về vi phạm pháp luật cũng ngày càng toàn diện, đầy đủ và chính xác hơn. Trong cuộc sống hàng ngày, mọi người thường băn khoăn, thắc mắc về việc như thế nào được coi là vi phạm pháp luật? Vậy khái niệm vi phạm pháp luật là gì? Khi vi phạm pháp luật thì bị xử lý như thế nào sẽ được Luật Minh Gia giải đáp dưới đây.

1. Vi phạm pháp luật là gì?

Vi phạm pháp luật là một hiện tượng lệch chuẩn xã hội, gây ra hoặc đe dọa gây ra những hậu quả xấu cho xã hội. Vi phạm pháp luật là một hiện tượng lịch sử, xuất hiện từ khi có pháp luật. Qua các thời đại, nhận thức của con người về vi phạm pháp luật có sự khác nhau.

Vi phạm pháp luật là kết quả của ý thức của con người, được thể hiện ra thế giới khách quan bằng hành vi thực tế cụ thể. Các quy phạm pháp luật là khuôn mẫu cho cách xử sự của con người, thông qua quy phạm pháp luật, các cá nhân, tổ chức trong xã hội biết mình được làm gì, không được làm gì, phải làm gì, phải làm như thế nào... Những hành vi ngược với cách xử sự nêu ra trong quy phạm pháp luật bị coi là hành vi trái pháp luật. Đó có thể là hành vi bị pháp luật cấm, hành vi vượt quá sự cho phép của pháp luật, hành vi không thực hiện sự bắt buộc của pháp luật hay hành vi thực hiện không đúng cách thức mà pháp luật yêu cầu.

Từ những phân tích trên, có thể xác định: Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật, có lỗi, do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lí thực hiện, xâm hại các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ.

2. Dấu hiệu vi phạm pháp luật

Theo đó, một hiện trong xã hội bị coi là vi phạm pháp luật khi có đủ các dấu hiệu cơ bản sau:

- Vi phạm pháp luật là hành vi thực tế của con người

Hành vi là xử sự của con người trong một điều kiện hoàn cảnh cụ thể, biểu hiện bằng lời nói, thao tác, cử chỉ nhất định hoặc bằng sự thiếu vắng những thao tác, cử chỉ, lời nói nào đó.

Pháp luật được đặt ra là để điều chỉnh hành vi của con người nhằm xác lập và duy trì trật tự xã hội Bằng pháp luật, nhà nước và xã hội chính thức thể hiện quan điểm của mình trong việc khuyến khích hay ngăn cấm một hành và cụ thể nào đó. Do vậy, phải có hành vi thực tế của chủ thể mới có cơ sở để xác định có vi phạm pháp luật hay không.

- Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật

Các quy phạm pháp luật là khuôn mẫu cho cách xử sự của con người thông qua quy phạm pháp luật, các cá nhân, tổ chức trong xã hội biết mình được làm gì, không được làm gì phải làm gì phải làm như thế nào. Những hành vi ngược với cách xử sự nêu ra trong quy phạm pháp luật bị coi là hành vi trái pháp luật. Đó có thể là hành vi bị pháp luật cấm, hành vi vượt quá sự cho phép của pháp luật, hành vi không thực hiện sự bắt buộc của pháp luật hay thực hiện không đúng cách thức mà pháp luật yêu cầu.

Lưu ý: Những hành vi trái đạo đức xã hội, trái với quy định của các tổ chức trong xã hội, trái phong tục tập quán, nhưng không trái pháp luật không phải là vi phạm pháp luật.

- Vi phạm pháp luật do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lí thực hiện

Một người được coi là có năng lực trách nhiệm pháp lí khi họ đạt đến độ tuổi do pháp luật quy định, đồng thời có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình. Đối với mỗi lĩnh vực khác nhau, pháp luật quy định độ tuổi phải chịu trách nhiệm pháp khác nhau.

Thông thường, khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của con người phát triển cùng với sự trưởng thành về tuổi tác. Chính vì vậy, pháp luật của các nhà nước đều lấy dấu hiệu tuổi để phản ánh khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của chủ thể.

- Vi phạm pháp luật luôn chứa đựng lỗi của chủ thể

Lỗi được đồng nhất với hành vi của con người, đó là những hành vi sai sót, hành vi không nên có, không đáng có. Một người bị coi là có lỗi khi thực hiện một hành vi trái pháp luật nếu đó là kết quả của sự tự lựa chọn, quyết định và thực hiện của chính chủ thể trong khi có đủ điều kiện để lựa chọn, quyết định và thực hiện một xử sự khác phù hợp với các quy định của pháp luật.

3. Cấu thành của vi phạm pháp luật

Cấu thành vi phạm pháp luật là toàn bộ những yếu tố, những bộ phận hợp thành một vi phạm pháp luật cụ thể, bao gồm mặt khách quan, chủ thể, mặt chủ quan và khách thể.

* Mặt khách quan của vi phạm pháp luật

Là toàn bộ những biểu hiện ra bên ngoài thế giới khách quan, bao gồm các hành vi trái pháp luật, hậu quả của hành vi đó và những yêu tố như thời gian, địa điểm, cách thức, thủ đoạn, công cụ, phương tiện vi phạm pháp luật.

- Hành vi trái pháp luật có thể thể hiện dưới dạng những hành động như đâm, chém người, trộm cắp tài sản, đi vào đường cấm,… có thể được thể hiện dưới dạng không hành động như không tố giác tội phạm, trốn tránh thực hiện nghĩa vụ quân sự,…

- Hậu quả là kết quả trực tiếp của hành vi trái pháp luật, đó là những thiệt hại xảy ra cho xã hội. Bất cứ vi phạm pháp luật nào cũng có thể gây ra hoặc đe dọa gây ra những hậu quả nhất định. Hậu quả của vi phạm pháp luật được biểu hiện qua sự biến đổi tình trạng bình thường của các quan hệ xã hội bị xâm hại. Đó có thể là những thiệt hại cụ thể, có thể định lượng được như thiệt hại về của cải vật chất, về tính mạng, sức khỏe của con người hoặc cũng có thể là những thiệt hại trừu tượng như thiệt hại về tinh thần của con người, tình trạng nguy hiểm cho đời sống,…

- Phương pháp thủ đoạn là cách thức thực hiện hành vi vi phạm, bao gồm cách thức tiến hành hành vi, cách thức sử dụng công cụ phương tiện. Những yếu tố này cũng ít nhiều phản ánh tính chất nguy hiểm của vi phạm pháp luật.

* Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật

Là toàn bộ diễn biến tâm lí của chủ thể khi vi phạm pháp luật bao gồm lỗi, động cơ và mục đích.

- Lỗi phản ánh thái độ tâm lí bên trong của chủ thể đối với hành vi trái pháp luật và hậu quả của hành vi đó, cho nên lỗi là yếu tố quan trọng phản ánh mức độ nguy hiểm của vi phạm pháp luật. Có hai loại lỗi cơ bản là cố ý và vô ý, lỗi cố ý gồm cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp, lỗi vô ý gồm vô ý do quá tự tin và vô ý do cẩu thả.

+ Lỗi cố ý trực tiếp có đặc trưng là chủ thể vi phạm nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả do hành vi của mình gây ra và mong muốn hậu quả đó xảy ra.

+ Lỗi cố ý gián tiếp có đặc trưng là chủ thể vi phạm nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả do hành vi của mình gây ra, nhưng có ý thức để mặc cho hậu quả đó xảy ra.

+ Lỗi vô ý vì quá tự tin có đặc trưng là chủ thể vi phạm gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội trong trường hợp nhận thấy trước hậu quả đó nhưng tin tưởng hậu quả đó không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được.

+ Lỗi vô ý do cẩu thả có đặc trưng là chủ thể vi phạm đã gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội trong trường hợp không nhận thấy trước được hậu quả đó mặc dù cần phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó. Yếu tố cần phải thấy trước thể hiện ở chỗ người vi phạm có nghĩa vụ phải tuân thủ những quy tắc nhất định nhưng do thiếu cẩn trọng, không tập trung, lơ là, tắc trách nên đã không thực hiện những nghĩa vụ đó. Yếu tố có thể thấy trước thể hiện ở chỗ người vi phạm có đủ điều kiện khách quan và chủ quan (trình độ nhận thức, kinh nghiệm sống, trình độ chuyên môn,…) để thấy trước hậu quả khi thực hiện hành vi của mình.

- Động cơ vi phạm là động lực bên trong thúc đẩy chủ thể thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Chỉ những vi phạm pháp luật với lỗi cố ý mới có yếu tố động cơ, bởi vì người vi phạm pháp luật với lỗi vô ý, khi thực hiện hành vi họ không nhận thức trước hành vi của mình là vi phạm pháp luật hoặc hoàn toàn tin rằng hành vi của mình là không vi phạm pháp luật.

- Mục đích vi phạm pháp luật là kết quả trong ý thức mà chủ thể vi phạm pháp luật đặt ra và mong muốn đạt được khi thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Chỉ những vi phạm với lỗi cố ý trực tiếp mới có yếu tố mục đích, bởi vì chỉ trong trường hợp này, người vi phạm mới mong muốn đạt được kết quả nào đó bằng việc thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Cần phân biệt mục đích vi phạm với hậu quả của vi phạm pháp luật. Hậu quả là kết quả xảy ra trên thực tế của hành vi vi phạm, còn mục đích là kết quả trong ý thức mà chủ thể mong muốn đạt được, nó nảy sinh trước khi thực hiện hành vi. Hậu quả xảy ra có thể trùng hợp với mục đích nhưng cũng có thể khác so với mục đích mà chủ thể mong muốn.

* Chủ thể của vi phạm pháp luật

Là những cá nhân hay tổ chức có năng lực trách nhiệm pháp lí đã có hành vi vi phạm pháp luật. Năng lực trách nhiệm pháp lí của cá nhân được xác định trên cơ sở độ tuổi và khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của họ. Mọi tổ chức hợp pháp đều có năng lực trách nhiệm pháp lí, năng lực trách nhiệm pháp lí của tổ chức được xác định trên cơ sở địa vị pháp lí của tổ chức đó. Pháp luật của các nhà nước khác nhau có thể có quy định khác nhau về năng lực trách nhiệm pháp lí cũng như cơ cấu chủ thể vi phạm pháp luật.

* Khách thể của vi phạm pháp luật

Là những quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ nhưng đã bị hành vi vi phạm pháp luật xâm hại. Khách thể là yếu tố quan trọng phản ánh tính chất nguy hiểm của hành vi vi phạm pháp luật. Một vi phạm pháp luật có thể xâm hại một hoặc nhiều khách thể, chẳng hạn hành vi trộm cắp xâm phạm quyền sở hữu; hành vi cướp vừa xâm hại sức khoẻ, tính mạng con người, vừa xâm hại quyền sở hữu.

4. Phân loại vi phạm pháp luật

Trong khoa học pháp lí hiện nay, có nhiều cách để phân loại vi phạm pháp luật, mỗi cách dựa trên những căn cứ nhất định.

- Căn cứ vào khách thể của vi phạm có thể chia vi phạm pháp luật thành các loại tương ứng với các loại quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ, gồm: các loại vi phạm pháp luật về đất đai, vi phạm pháp luật về tài chính, ngân hàng, vi phạm pháp luật về môi trường, vi phạm pháp luật về hôn nhân gia đình,…

- Căn cứ vào mức độ nguy hiểm cho xã hội của vi phạm có thể chia vi phạm pháp luật thành hai loại là tội phạm và các vi phạm pháp luật khác. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội ở mức cao nhất. Theo quan điểm truyền thống, vi phạm pháp luật được chia thành bốn loại là vi phạm hình sự, vi phạm hành chính, vi phạm kỉ luật nhà nước và vi phạm dân sự.

5. Xử lý vi phạm pháp luật

Từ cách phân loại vi phạm nêu trên, có thể hiểu rằng, mỗi loại vi phạm pháp luật sẽ có chế tài xử lý khác nhau.

- Xử lý vi phạm hình sự (tội phạm): với người thực hiện hành vi trái pháp luật được quy định trong pháp luật hình sự, có lỗi và do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lí thực hiện, xâm hại những quan hệ xã hội quan trọng nhất sẽ bị xử lí hình sự.

Ở Việt Nam hiện nay, tội phạm được quy định trong Bộ luật hình sự và các hình phạt cụ thể với từng tội. Các hình phạt đối với người phạm tội gồm có: Hình phạt chính (Cảnh cáo; Phạt tiền; Cải tạo không giam giữ; Trục xuất; Tù có thời hạn; Tù chung thân; Tử hình) và Hình phạt bổ sung (Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định; Cấm cư trú; Quản chế; Tước một số quyền công dân; Tịch thu tài sản; Phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính; Trục xuất, khi không áp dụng là hình phạt chính).

- Xử lý vi phạm hành chính: vi phạm hành chính là hành vi trái pháp luật, có lỗi, do cá nhân, tổ chức có năng lực pháp lí thực hiện, xâm phạm các quy tắc quản lí nhà nước mà không bị coi là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử lí hành chính. Có thể nói, vi phạm hành chính là loại vi phạm có tính nguy hiểm cho xã hội thấp hơn tội phạm. Ở Việt Nam hiện nay, vi phạm hành chính được quy định trong Luật xử lí vi phạm hành chính và các Nghị định về xử lý vi phạm hành chính trong các lĩnh vực cụ thể.

Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính bao gồm: Cảnh cáo; Phạt tiền; Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn; Tịch thu tang vật vi phạm hành chính, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính; Trục xuất.

Các biện pháp khắc phục hậu quả bao gồm: Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu; Buộc tháo dỡ công trình, phần công trình xây dựng không có giấy phép hoặc xây dựng không đúng với giấy phép; Buộc thực hiện biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, lây lan dịch bệnh; Buộc đưa ra khỏi lãnh thổ nước CHXHCN Việt Nam hoặc tái xuất hàng hoá, vật phẩm, phương tiện; Buộc tiêu hủy hàng hóa, vật phẩm gây hại cho sức khỏe con người, vật nuôi, cây trồng và môi trường, văn hóa phẩm có nội dung độc hại; Buộc cải chính thông tin sai sự thật hoặc gây nhầm lẫn; Buộc loại bỏ yếu tố vi phạm trên hàng hoá, bao bì hàng hóa, phương tiện kinh doanh, vật phẩm; Buộc thu hồi sản phẩm, hàng hóa không bảo đảm chất lượng; Buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện vi phạm hành chính hoặc buộc nộp lại số tiền bằng trị giá tang vật, phương tiện vi phạm hành chính đã bị tiêu thụ, tẩu tán, tiêu hủy trái quy định của pháp luật;…

- Xử lý vi phạm kỉ luật nhà nước: vi phạm kỉ luật nhà nước là hành vi trái pháp luật, có lỗi, do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lí thực hiện, xâm hại các quan hệ xã hội được xác lập trong nội bộ cơ quan, tổ chức thuộc phạm vi quản lí nhà nước. Những quan hệ xã hội này được pháp luật điều chỉnh nhằm đảm bảo trật tự trong hoạt động của cơ quan, tổ chức. Chủ thể vi phạm kỉ luật nhà nước là cá nhân, tổ chức có quan hệ ràng buộc với một cơ quan, tổ chức thuộc phạm vi quản lí nhà nước. Việc xử lý vi phạm căn cứ vào các văn bản, điều lệ, quy định dành riêng cho nhóm đối tượng vi phạm kỷ luật Nhà nước.

- Xử lý vi phạm dân sự: vi phạm pháp luật dân sự là hành vi trái pháp luật, có lỗi, do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lí thực hiện, xâm phạm quan hệ tài sản, quan hệ nhân thân gắn với tài sản, quan hệ nhân thân phi tài sản. Đây là vi phạm pháp luật trong trường hợp chủ thể không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ của họ trong một quan hệ pháp luật dân sự cụ thể. Các biện pháp xử lý gồm: bồi thường thiệt hại, phạt vi phạm, buộc thực hiện hợp đồng, buộc bàn giao tài sản,… Thực tế cho thấy, vi phạm pháp luật hết sức đa dạng, phức tạp, ranh giới giữa các loại vi phạm nhiều khi khá mong manh.

Tài liệu tham khảo: Giáo trình Lí luận chung về nhà nước và pháp luật, Trường Đại học Luật Hà Nội; Chủ biên: Nguyễn Minh Đoan, Nguyễn Văn Năm; Nguyễn Văn Động…

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

Đặt câu hỏi tư vấn
Chat zalo