Luật sư Việt Dũng

Vận chuyển vũ khí thô sơ bị xử lý như thế nào?

Nội dung tư vấn: E chào Luật Minh Gia. E có một sự việc muốn hỏi luật sư cho rõ ràng mong luật sư tạo điều kiện và giúp đỡ e. E xin trình bày sự việc của e ngắn gọn như thế này.

 

Trước tết nguyên đán năm 2017  ngày 25-12-2016 âm lịch vào 3h sáng e di chuyển từ bình dương về Lâm Đồng để đón tết cùng gia đình. E dời khỏi nhà khoảng được 10km e có nhặt đươc một báng súng cồn tự chế dài khoảng 1m đang trong tình trạng hư hỏng. Trên báng súng có một bơm tay mini và một hộp nhựa đựng cồn và đặc biệt là súng k có nòng, k thể gây sát thương.. theo suy nghĩ của e thì nó cũng k vi phạm pháp luật nên tò mò thấy lạ và đẹp thì e cũng bỏ lên xe honda và tiếp tục di chuyển về lâm đồng, nhưng đi được một đoạn thì bị lực lượng công an kiểm tra hành chính và phát hiện báng súng của e. Họ bắt giữ xe honda winner và báng súng đưa e về phường giải quyết. Lập biên bản công an cho e vào tội tàng trữ vận chuyển vũ khí thô sơ. Và sáng hôm sau thì chuyển hồ sơ của e về công an thị xã  giải quyết. E chỉ nôn nóng để mong lấy được chiếc xe ra và về quê ăn tết với yêu cầu lấy chiếc xe ra thì công an bắt e đóng 10 triệu đồng thế chân vào chiếc xe đó, thì e cũng đồng ý làm theo. khi về e có hỏi là cái sự việc của e bao giờ thi giải quyết. Họ chỉ nói để lại số điện thoại qua tết gọi giải quyết sau. E cũng không nghĩ gì. Nhưng đến bây giờ ngày 15-03-2017 rồi mà e vẫn chưa nhận được cuộc gọi hay là thư mời nào từ công an thị xã. E xin hỏi luât sư số tiền e đóng thế chân chiếc xe có lấy lại được  không và e có bị vi phạm pháp luật không, nếu có e sẽ bị xử theo luật nào và trong thời gian bao lâu thì sẽ xử. E xin chân thành cảm ơn luật sư

 

Trả lời: Cảm ơn bạn đã tin tưởng gửi yêu cầu tư vấn đến công ty Luật Minh Gia với vụ việc của bạn chúng tôi có quan điểm tư vấn như sau:

 

Thứ nhất, với hành vi vận chuyển trái phép vũ khí thô sơ được quy định tại Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 như sau:

 

Người nào chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí thô sơ hoặc công cụ hỗ trợ, đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tù từ ba tháng đến hai năm.

 

Như vậy khi có hành vi vận chuyển vũ khí thô sơ thì có thể bị truy cứu hình sự. Trong trường hợp hành vi vi phạm  chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hành sự có thể bị xử phạt vi phạm hành chính theo khoản 5 điều 10 Nghị định 167/2013/NĐ – CP :

 

 Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:

 

a) Sản xuất, sửa chữa các loại vũ khí thô sơ, công cụ hỗ trợ mà không có giấy phép;

 

b) Sản xuất, sửa chữa các loại đồ chơi đã bị cấm;

 

c) Mua, bán, vận chuyển, tàng trữ vũ khí thô sơ, công cụ hỗ trợ mà không có giấy phép;

 

d) Mua, bán, vận chuyển, tàng trữ trái phép vũ khí thể thao;

 

đ) Vận chuyển vũ khí, các chi tiết vũ khí quân dụng, phụ kiện nổ, công cụ hỗ trợ mà không có giấy phép hoặc có giấy phép nhưng không thực hiện đúng quy định trong giấy phép hoặc không có các loại giấy tờ khác theo quy định của pháp luật;

 

e) Bán vật liệu nổ công nghiệp, Nitrat Amon hàm lượng cao (từ 98,5% trở lên) cho các đơn vị chưa được cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện về an ninh, trật tự và giấy phép sử dụng vật liệu nổ công nghiệp hoặc Nitrat Amon hàm lượng cao (từ 98,5% trở lên) hoặc văn bản chấp thuận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

 

Như vậy, tùy vào mức độ vi phạm của hành vi vận chuyển trái phép vĩ khí thô sơ mà người vi phạm  có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc trách nhiệm xử phạt vi phạm hành chính.

 

Đối chiếu với vụ việc của bạn cần xem xét lúc bạn nộp 10 triệu đồng cho cơ quan công an có ghi lại biên bản theo hình thức là xử phạt hành chính về tội vận chuyển trái phép vũ khí thô sơ hay không. Nếu việc nộp phạt 10 triệu là mức xử phạt vi phạm hành chính đã được cơ quan công an xác nhận thì coi như hành vi của bạn không bị truy cứu trách nhiệm hình sự mà chỉ bị xử phạt hành chính và đương nhiên bạn không thể lấy lại số tiền này.

 

Thứ hai, về thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố được quy định tại điều 147 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 như sau:

 

Trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày nhận được tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải kiểm tra, xác minh và ra một trong các quyết định:

 

a) Quyết định khởi tố vụ án hình sự;

 

b) Quyết định không khởi tố vụ án hình sự;

 

c) Quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố.

 

2. Trường hợp vụ việc bị tố giác, tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố có nhiều tình tiết phức tạp hoặc phải kiểm tra, xác minh tại nhiều địa điểm thì thời hạn giải quyết  tố giác, tin báo, kiến nghị khởi tố có thể kéo dài nhưng không quá 02 tháng. Trường hợp chưa thể kết thúc việc kiểm tra, xác minh trong thời hạn quy định tại khoản này thì Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền có thể gia hạn một lần nhưng không quá 02 tháng.

 

Chậm nhất là 05 ngày trước khi hết thời hạn kiểm tra, xác minh quy định tại khoản này, Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải có văn bản đề nghị Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền gia hạn thời hạn kiểm tra, xác minh.

 

Như vậy, từ thời điểm cơ quan công an phát hiện tội phạm trong vòng 20 ngày hoặc tối đa là 2 tháng để cơ quan công an xác minh, kiểm tra vụ việc sau đó sẽ ra một trong các quyết định khởi tố vụ án, quyết định không khởi tố vụ án hoặc quyết định  tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố.

 

Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi về vấn đề bạn quan tâm. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ qua Email hoặc gọi điện đến Tổng đài luật sư tư vấn luật trực tuyến - 1900.6169 để được giải đáp, hỗ trợ kịp thời

 

Trân trọng

CV Hà Tuyền - Công ty Luật Minh Gia

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

0971.166.169