Tư vấn thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai
Mục lục bài viết
1. Quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai
- Theo quy định Luật Đất đai, tranh chấp về quyền sử dụng đất mà đương sự có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định về:
“Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định, được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận không có tranh chấp mà có một trong các loại giấy tờ sau đây thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất; Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có một trong các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này mà trên giấy tờ đó ghi tên người khác, kèm theo giấy tờ về việc chuyển quyền sử dụng đất có chữ ký của các bên có liên quan, nhưng đến trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành chưa thực hiện thủ tục chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật, nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đất không có tranh chấp thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất; Hộ gia đình, cá nhân được sử dụng đất theo bản án hoặc quyết định của Toà án nhân dân, quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án, quyết định giải quyết tranh chấp đất đai của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã được thi hành thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sau khi thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật.”
Và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân.
- Nếu tranh chấp về quyền sử dụng đất mà đương sự không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc không có một trong các loại giấy tờ quy định theo phần in nghiêng trên đây thì thuộc thẩm quyền giải quyết của chủ tịch UBND huyện.
Như vậy, Tòa án chỉ giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất khi các đương sự xuất trình được giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (bìa đỏ). Trường hợp chưa có bìa đỏ nhưng có xác nhận của chính quyền địa phương về việc đã và đang xem xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì Tòa án cũng thụ lý giải quyết.
Trường hợp đất đai đang tranh chấp chỉ có sổ mục, không có sổ địa chính tức là chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, với lý do như sau:
Theo quy định Luật đất đai thì Sổ mục kê được hiểu như sau: "Sổ mục kê đất đai là sổ được lập cho từng đơn vị xã, phường, thị trấn để ghi các thửa đất và các thông tin về thửa đất đó."
Sổ mục kê đất được lập để phục vụ cho Nhà nước nắm đầy đủ ruộng đất và thực hiện thống kê, kiểm kê đất đai theo quy định của pháp luật đất đai; do đó Sổ mục kê đất phải thể hiện toàn bộ các thửa đất (gồm cả thửa đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (dưới đây gọi là giấy chứng nhận) và thửa chưa được cấp giấy chứng nhận), các công trình thủy lợi và sông ngòi, kênh rạch suối trong phạm vi địa giới hành chính từng xã, phường, thị trấn. Những thửa đất đã được cấp giấy chứng nhận thì thông tin của thửa thể hiện trên Sổ mục kê đất thống nhất với thông tin trên giấy chứng nhận, những thửa đất chưa cấp giấy chứng nhận thì thông tin của thửa thể hiện theo kết quả điều tra, đo đạc hiện trạng đang sử dụng đất mà chưa có giá trị pháp lý về quyền sử dụng đất.
Vì những lý do trên, Sổ mục kê đất không được coi là một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định như sau: “Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định, được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận không có tranh chấp mà có một trong các loại giấy tờ sau đây thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất”.
-----
2. Giải quyết tranh chấp đất đai thông qua hòa giải tại UBND thế nào?
Câu hỏi:
Em xin chào Luật Minh Gia. Em xin bên Luật Minh Gia tư vấn cho em một vài câu hỏi như sau:
1/ Hòa giải tại UBND xã chỉ bắt buộc đối với người không có giấy chứng nhận QSDĐ. Vậy cho em hỏi UBND cấp xã vẫn được thụ lý hòa giải đối với các tranh chấp đất đai có liên quan không, ví dụ như: chuyển nhượng QSDĐ... Vì em thấy nhiều nơi vẫn hòa giải chuyển nhượng QSDĐ.
2/ Hòa giải tại UBND xã vẫn có thể mời thành viên Hội Luật Gia không.? Vì em thấy có trường hợp vẫn cho mời Hội Luật Gia.Em có 2 câu hỏi thắc mắc như trên. Em cảm ơn Luật Minh Gia rất nhiều.
Trả lời:
Cảm ơn anh/chị đã tin tưởng và gửi đề nghị tư vấn đến Công ty Luật Minh Gia, Đối với yêu cầu hỗ trợ của anh/chị chúng tôi tư vấn như sau:
Theo quy định của Luật đất đai năm 2013 về hòa giải tranh chấp tại Uỷ ban nhân dân xã. Cụ thể:
Điều 202. Hòa giải tranh chấp đất đai
1. Nhà nước khuyến khích các bên tranh chấp đất đai tự hòa giải hoặc giải quyết tranh chấp đất đai thông qua hòa giải ở cơ sở
2. Tranh chấp đất đai mà các bên tranh chấp không hòa giải được thì gửi đơn đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất tranh chấp để hòa giải.
3. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm tổ chức việc hòa giải tranh chấp đất đai tại địa phương mình; trong quá trình tổ chức thực hiện phải phối hợp với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã và các tổ chức thành viên của Mặt trận, các tổ chức xã hội khác. Thủ tục hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân cấp xã được thực hiện trong thời hạn không quá 45 ngày, kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai.
4. Việc hòa giải phải được lập thành biên bản có chữ ký của các bên và có xác nhận hòa giải thành hoặc hòa giải không thành của Ủy ban nhân dân cấp xã. Biên bản hòa giải được gửi đến các bên tranh chấp, lưu tại Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất tranh chấp.
Như vậy, với trường hợp có tranh chấp đất đai mà các bên không thỏa thuận được với nhau thì có quyền làm đơn gửi Uỷ ban nhân dân xã để giải quyết hòa giải. Trên cơ sở yêu cầu thì Uỷ ban có trách nhiệm tổ chức hòa giải. Ngoài ra, thành viên hội Luật Gia chỉ có thể tham gia buổi hòa giải trong trường hợp có văn bản ủy quyền từ phía một trong hai bên tranh chấp.
Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất