Luật sư Nguyễn Mạnh Tuấn

Tư vấn về công ty có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản?

Tư vấn hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản khi hai công ty ký kết hợp đồng đặt cọc, hợp đồng hợp tác kinh doanh. Thẩm quyền của Phòng cảnh sát kinh tế trong hòa giải tranh chấp. Nội dung tư vấn như sau:

Nội dung câu hỏi: Tháng 7 năm 2016 tôi có ký hợp đồng bán quặng đồng cho đơn vị Trung Quốc. Tổng hai lần họ đặt cọc là 1000.000 nhân dân tệ tương đương 3,5 tỷ VNĐ. Trong hợp đồng có ghi sau 15 ngày tôi sẽ phải xuất hàng cho công ty TQ. Nhưng sau khi nhận tiền chuẩn bị thủ tục để xuất hàng, thì tôi biết luật pháp Việt Nam không cho xuất khẩu quặng đồng. Sau đó tôi bàn bạc với đối tác có gửi công văn xin Chính Phủ và Bộ Công thương để xuất gia công. Nhưng chưa có công văn trả lời. Trong suốt quá trình chờ xin giấy phép đã rất nhiều lần hai bên bàn bạc tìm hướng giải quyết. Đến tháng 12 năm 2016 tôi có gửi công văn xin lỗi bên Công ty TQ bởi vì chưa xin được giấy phép nên công ty tôi không thể mua được hàng tại mở ở Việt Nam mặc dù đã đặt cọc tại mỏ ở Việt Nam. Việc nói đặt cọc tiền tại mở ở Việt Nam là không có thật. Nhưng cuối công văn công ty tôi gửi cho công ty TQ có nội dung, nếu công ty TQ không thông cảm thì chúng tôi sẽ chuyển trả 100% số tiền đã cọc. Công ty TQ đã thông cảm. Sau đó hai bên đã cố gắng tìm hướng giải quyết. Biết rằng giấy phép sẽ không được. Nên đến tháng 2 năm 2017 công ty tôi và công ty Trung Quốc có ký một phụ lục hợp đồng với nội dung: “Hai bên hợp tác xây dựng nhà máy luyện quặng đồng thành sten đồng đủ tiêu chuẩn xuất khẩu. Số tiền công ty Trung Quốc chuyển để mua hàng sẽ chuyển thành tiền hợp tác xây dựng. Bên công ty tôi phụ trách thiết kế, xây dựng nhà máy. Bên công ty Trung Quốc phụ trách cung cấp máy móc và kỹ thuật”. Nhưng sau đó chúng tôi biết được máy móc bên công ty Trung Quốc cung cấp không thể làm ra sản phẩm sten đồng đạt tiêu chuẩn xuất khẩu. Sau đó có một số vấn đề không đồng nhất quan điểm. Bên công ty Trung Quốc không liên lạc với công ty chúng tôi. Và chúng tôi không thể liên lạc được bên Trung quốc để thanh lý hợp đồng. Đến tháng 12 năm 2017 thì công ty Trung Quốc đưa đơn kiện công ty tôi lên cục cảnh sát hình sự về hành vị lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Sau đó cục cảnh sát hình sự chuyển đơn về phòng cảnh sát kinh tế tỉnh nơi công ty tôi đóng địa bàn. Tôi đã lên phòng cảnh sát kinh tế để làm việc cung cấp đầy đủ chứng từ và viết tường trình cụ thể về tất cả sự việc. Cho tôi xin hỏi quý công ty luật Minh Gia với nội dung như trên công ty tôi có bị quy vào tội chiếm đoạt tài sản không? Nếu không thì bên phòng cảnh sát kinh tế có quyền hạn đứng giữa làm trọng tài để hai bên bàn bạc thanh lý hợp đồng và trả lại tiền không? Hay phải đưa ra toà án kinh tế? Và công ty tôi phải xử lý thế nào với số tiền bên công ty Trung Quốc đã chuyển. Số tiền đó tôi đã đưa vào xây dựng nhà xưởng và các chi phí thủ tục. Xin trân thành cảm ơn!

 

Trả lời: Chào bạn! Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi cần tư vấn tới Công ty Luật Minh Gia, với thắc mắc của bạn chúng tôi giải đáp như sau:

 

Thứ nhất, vấn đề công ty bạn có bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản hay không?

 

Điều 174 Bộ luật hình sự 2015 quy định về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản như sau:

 

“1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

 

a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;

 

b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

 

c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

 

d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ; tài sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại.

 

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

 

a) Có tổ chức;

 

b) Có tính chất chuyên nghiệp;

 

c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;

 

d) Tái phạm nguy hiểm;

 

đ) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;

 

e) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;

 

g) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này.

 

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

 

a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;

 

b) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này;

 

c) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.

 

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:

 

a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;

 

b) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này;

 

c) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.

 

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”

 

Căn cứ theo quy định này thì tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản chỉ được áp dụng đối với cá nhân. Công ty bạn trong trường hợp này là một pháp nhân do đó sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Trong Bộ luật hình sự năm 2015, pháp nhân chỉ bị truy cứu trách nhiệm đối với một số tội phạm liên quan đến các tội phạm trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, thương mại; các tội phạm trong lĩnh vự thuế, tài chính, ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm; các tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế; các tội phạm về môi trường.

 

Tuy nhiên, với trường hợp này bạn là người trực tiếp thỏa thuận mua bán quặng sắt với bên phía Trung Quốc do đó nếu ngay từ đầu bạn xác định không thể cung cấp được sản phẩm sang cho phía công ty Trung Quốc nhưng vẫn đưa ra những thông tin gian dối, hứa hẹn sẽ xuất khẩu được số lượng hàng đã thỏa thuận để phía đối tác tin tưởng và chuyển tiền sau đó có ý định chiếm đoạt số tiền đó thì bạn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Đối với trường hợp này, việc bạn không biết pháp luật nước ta không cho phép xuất khẩu quặng đồng sau khi hai bên đã ký kết thỏa thuận, ngoài ra sau khi không thể cung ứng sản phẩm cho đối tác bạn đã gửi công văn thông báo đồng thời có ý định hoàn trả lại số tiền đã nhận đặt cọc lại cho phía công ty Trung Quốc nếu phía công ty Trung Quốc không có ý định tiếp tục hợp tác. Số tiền đặt cọc đã được hai bên thương lượng và sử dụng số tiền đó vào mục đích xây dựng nhà máy sản xuất quặng đồng thành sten. Do đó, với những thông tin mà bạn cung cấp chúng tôi xác định hành vi này chưa đủ yếu tố cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên, việc kết luận công ty bạn có phải chịu trách nhiệm hình sự hay không còn tùy thuộc vào quá trình điều tra những thông tin mà phía công ty Trung Quốc và những chứng cứ chứng minh mà công ty bạn cung cấp cho cơ quan công an.

 

Thứ hai, phòng cảnh sát kinh tế có thể đứng ra làm trung gian hòa giải tranh chấp giữa công ty bạn với phía công ty Trung Quốc được hay không?

 

Nếu sau quá trình điều tra, xác minh phòng cảnh sát kinh tế xác định không có hành vi phạm tội xảy ra thì phòng cảnh sát kinh tế có trách nhiệm thông báo cho các bên biết về kết quả điều tra, phòng cảnh sát kinh tế không có chức năng làm trung gian hòa giải tranh chấp giữa công ty bạn và phía công ty Trung Quốc trong trường hợp này.

 

Nếu không có dấu hiệu vi phạm hình sự thì vấn đề của phía công ty bạn và phía công ty Trung Quốc sẽ được giải quyết theo hướng tranh chấp dân sự về vấn đề hợp đồng hợp tác. Số tiền công ty bạn đã sử dụng để xây dựng nhà xưởng và chi cho các chi phí thủ tục sẽ được hai bên thương lượng giải quyết tại Tòa án nhân dân cấp Tỉnh, nếu không thương lượng được sẽ giải quyết theo chỉ định của Tòa án.

 

Trên đây là nội dung tư vấn của Luật Minh Gia về vấn đề bạn hỏi và quan tâm. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ cần luật sư giải đáp, bạn vui lòng gọi đến Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến của chúng tôi - Số điện thoại liên hệ: 1900.6169 để được hỗ trợ kịp thời.

 

Trân trọng.
CV tư vấn: Nguyễn Nhàn - Luật Minh Gia

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

0971.166.169