Trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân - Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
(Quá trình trao đổi qua emal) Quá trình làm việc: - Từ 14/1/2017. Bên em đã gửi hệ thống tận tay bên B. Hôm đó, bên B bảo chưa nghiên cứu kĩ hợp đồng và đề nghị sẽ kí và chuyển hợp đồng sau tết âm lịch (hôm 14/1 là còn mấy ngày đến tết âm). Em đồng ý và có viết 1 giấy biên nhận hàng hóa (ảnh đính kèm)- Từ 14/1 đến 9/3 em đã thông báo cho bên B 1 email và tin nhắn điện thoại. Yêu cầu bên B trả lời trước ngày 14/3 về việc hợp tác. Bên chỉ trả lời là quá bận nên chưa trả lời.- Em có kiểm tra lịch sử của thiết bị chuyển giao cho bên B thì nghi ngờ bên B chuyển máy móc bằng đường kí gửi máy bay. Dẫn đến hỏng hóc và không đi vào hoạt động được. Cố tình kéo dài thời gian và không hoàn trả máy. Câu hỏi xin được tư vấn:- Bên em là bên A có thể khởi kiện bên B vì tội lừa đảo, chiếm đoạt tài sản hay không ?- Nếu có thì bên B sẽ chịu mức xử phạt như thế nào ?- Thủ tục để khởi kiện ra sao ?Xin chân thành cảm ơn!
Trả lời: Cảm ơn bạn đã tin tưởng gửi câu hỏi tư vấn đến công ty Luật Minh Gia. Chúng tôi xin tư vấn cho bạn như sau:
Căn cứ theo Điều 139* Bộ luật hình sự 1999, sửa đổi bổ sung 2009 quy định về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản:
“1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm…”
Người nào bằng thủ đoạn gian dối: đưa ra những thông tin không đúng sự thật, hành vi này có thể thông qua lời nói; xuất trình giấy tờ giả mạo; giả danh cán bộ; giả danh tổ chức ký kết hợp đồng … nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản thì người này sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Mặt khác, chủ thể thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản là cá nhân: Phạm tội trong trường hợp quy định tại Khoản 1, 2 Điều 139 thì người phạm tội phải đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự; Phạm tội trong trường hợp quy định tại Khoản 3, 4 Điều 139 thì người phạm tội phải đủ 14 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự.
Như vậy, pháp nhân không phải là chủ thể chịu trách nhiệm hình sự đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Do đó, công ty B sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Nếu người của công ty B đứng ra kí kết hợp đồng với công ty bạn đưa ra những thông tin gian dối để thực hiện giao kết hợp đồng nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản thì người này sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Tuy nhiên, công ty B thanh toán, nhận hàng chậm chễ, gây thiệt hại cho công ty bạn thì công ty bạn có thể thực hiện giải quyết tranh chấp theo hợp đồng hai bên đã kí kết hoặc khởi kiện ra Tòa án hoặc trọng tài thương mại để yêu cầu giải quyết.
Trên đây là nội dung tư vấn của chúng tôi về vấn đề bạn quan tâm. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ qua Email hoặc gọi điện đến Tổng đài luật sư tư vấn luật trực tuyến - 1900.6169 để được giải đáp, hỗ trợ kịp thời.
Trân trọng!
Cv: Vũ Nga - Công ty Luật Minh Gia.
Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất