Trách nhiệm hình sự đối với hành vi vi phạm giao thông gây tai nạn chết người?
Luật sư tư vấn về: Kính chào luật minh gia! Xin luật minh gia có thể cho tôi hỏi về mọt số nội dung liên quan đến vụ tai nạn giao thông gây chết người: Vao khoang 19h00' Ngày 30/9/2017 em trai tôi 18 tuỏi (đang học lớp 12, vừa làm xong căn cước công dân) đi xe đạp điện lưu thông trên quốc lộ 1a (đúng làn đường quy định) thì vô tình có 2 thanh niên điều khiển phương tiện xe moto đi cùng chiều húc phải làm em tôi ngã đập đầu xuống đường. Tuy nhiên sau khi gây tai nạn 2 đối tượng không hỏi han để đưa đi cấp cứu mà bỏ chạy. Lúc nay trời đang mưa, khoảng 30 phút sau người dân nghe tiếng kêu cứu của e tôi và đưa vào trạm xá sơ cưu. Sau khi nhận được thông tin, gia đình tôi đã đưa đi cấp cứu nhưng em tôi đã qua dời trên đường (20h45' cùng ngày). Sau khi nhận dược thông tin về vụ án, cơ quan điều tra huyện và giám định pháp y của tỉnh đã tiến hành mọi thủ tục theo quy định. Ngay trong đêm 30/9 tổ truy xét đã tìm ra và xác định được danh tính của 2 đối tượng. Từ khi vụ án xảy ra (17 ngày) nhung gia đình tôi chưa nhạn được thông tinh gì từ cơ quan điều tra về vụ án. Từ những tình tiết trên xin luật minh gia cho tôi hoii mọt số vấn đề liên quan đến quy trình và trách nhiệm: - đây là vụ án nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hay đặc biệt ngiêm trọng; - quy trình của cơ quan đièu tra và viện kiểm sát từ khi nhận được thông tin vụ án đến khi ra quyết đình khởi tố vụ án này - gia đình tôi có cần viết đơn đề nghị khởi tố vụ án không; - thời gian khởi tố, và điều tra đối với vụ án này; - mức xư phạt hành chính và Trách nhiệm hình sự của đooi tượng là người điều khiển phương tiện và người ngồi cùng phương tiện (cùng gây tai nạn và cùng nhau bỏ trốn); các tình tiết giảm nhẹ (nếu có) - các khoản và mức bồi thường Cho gia đình tôi (em tôi đang học lớp 12, bố mẹ tôi là người trực tiếp nuôi dưởng thuộc hàng thừa kế thứ nhất);
Trả lời: Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi đề nghị tư vấn tới công ty Luật Minh Gia, với trường hợp của bạn chúng tôi tư vấn như sau:
Để thuận tiện cho quá trình tư vấn, chúng tôi xin gọi người điều khiển xe máy gây ra tai nạn là anh A và người ngồi cùng phương tiện là anh B.
Thứ nhất, theo điều 202, Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ như sau:
“1. Người nào điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:
…
c) Gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn;”
Anh A là người điều khiển phương tiện gây ra tai nạn và bỏ chạy không cứu giúp người bị nạn nên anh A có thể sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ theo điểm c, khoản 2, điều 202.
Đối với trường hợp của bạn thì gia đình mình không cần làm đơn yêu cầu khởi tố vụ án. Cơ quan điều tra nếu khi xác định có dấu hiệu của tội phạm trong vụ án này thì sẽ ra quyết định khởi tố theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, về loại tội phạm. Theo quy định tại khoản 3, Điều 8, Bộ luật hình sự năm 1999 quy định như sau:
“3. Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù; tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù; tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù; tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.”
Do thông tin bạn cung cấp chưa đủ căn cứ để xác định chính xác trường hợp này sẽ thuộc điều khoản nào của bộ luật hình sự nên chúng tôi không thể xác định chính xác giúp bạn được.
Thứ ba, khi nhận được thông tin về vụ án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ tiến hành kiểm tra, xác minh thông tin. Nếu có dấu hiệu tội phạm thì cơ quan điều tra sẽ ra quyết định khởi tố vụ án.
Theo quy định tại điều 103, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về nhiệm vụ giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố:
“1. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát có trách nhiệm tiếp nhận đầy đủ mọi tố giác, tin báo về tội phạm do cá nhân, cơ quan, tổ chức và kiến nghị khởi tố do cơ quan nhà nước chuyển đến. Viện kiểm sát có trách nhiệm chuyển ngay các tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố kèm theo các tài liệu có liên quan đã tiếp nhận cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền.
2. Trong thời hạn hai mươi ngày, kể từ ngày nhận được tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, Cơ quan điều tra trong phạm vi trách nhiệm của mình phải kiểm tra, xác minh nguồn tin và quyết định việc khởi tố hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự.
Trong trường hợp sự việc bị tố giác, tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố có nhiều tình tiết phức tạp hoặc phải kiểm tra, xác minh tại nhiều địa điểm thì thời hạn để giải quyết tố giác và tin báo có thể dài hơn, nhưng không quá hai tháng.
3. Kết quả giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố của cơ quan nhà nước phải được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp và thông báo cho cơ quan, tổ chức đã báo tin hoặc người đã tố giác tội phạm biết.
Cơ quan điều tra phải áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo vệ người đã tố giác tội pham.
4. Viện kiểm sát có trách nhiệm kiểm sát việc giải quyết của Cơ quan điều tra đối với tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố.”
Như vậy, thời hạn để cơ quan điều tra kiểm tra, xác minh nguồn tin và ra quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự là 20 ngày. Trường hợp sự việc có nhiều tình tiết phức tạp hoặc phải kiểm tra, xác minh tại nhiều địa điểm thì thời hạn có thể dài hơn, nhưng không được quá hai tháng.
Thời hạn điều tra vụ án hình sự được quy định tại điều 119, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 như sau:
“1. Thời hạn điều tra vụ án hình sự không quá hai tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá ba tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá bốn tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, kể từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc điều tra.
2. Trong trường hợp cần gia hạn điều tra do tính chất phức tạp của vụ án thì chậm nhất là mười ngày trước khi hết hạn điều tra, Cơ quan điều tra phải có văn bản đề nghị Viện kiểm sát gia hạn điều tra.
Việc gia hạn điều tra được quy định như sau:
a) Đối với tội phạm ít nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra một lần không quá hai tháng;
b) Đối với tội phạm nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra hai lần, lần thứ nhất không quá ba tháng và lần thứ hai không quá hai tháng;
c) Đối với tội phạm rất nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra hai lần, mỗi lần không quá bốn tháng;
d) Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra ba lần, mỗi lần không quá bốn tháng.
…”
Như vậy, tùy vào loại tội phạm thì sẽ có thời hạn điều tra khác nhau.
Cuối cùng, về mức bồi thường thiệt hại. Theo Điều 591, Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm như sau:
“1. Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm bao gồm:
a) Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm theo quy định tại Điều 590 của Bộ luật này;
b) Chi phí hợp lý cho việc mai táng;
c) Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng;
d) Thiệt hại khác do luật quy định.
2. Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp tính mạng của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại, nếu không có những người này thì người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng, người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại được hưởng khoản tiền này. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có tính mạng bị xâm phạm không quá một trăm lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.”
Anh A là người điều khiển phương tiện gây ra tai nạn nên anh A sẽ có trách nhiệm phải bồi thường những khoản sau:
-Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại.
-Chi phí hợp lý cho việc mai táng.
-Một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại.
Trên đây là nội dung tư vấn của Luật Minh Gia về vấn đề bạn hỏi và quan tâm. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ cần luật sư giải đáp, bạn vui lòng gọi đến Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến của chúng tôi - Số điện thoại liên hệ: 1900.6169 để được hỗ trợ kịp thời.
Trân trọng.
Luật gia / CV tư vấn: Hương Giang - Luật Minh Gia
Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất