Nguyễn Nhàn

Tội vu khống là gì? Có thể tố giác tội phạm ở đâu?

Khi phát hiện hành vi vi phạm pháp luật việc liên hệ với cơ quan có thẩm quyền để cơ quan có thẩm quyền tiến hành điều tra, xác minh và xử lý theo quy định có ý nghĩa vô cùng quan trọng.

Trong trường hợp quý khách có vướng mắc liên quan đến pháp luật hình sự như trình tự, thủ tục tố giác tội phạm cũng như được tư vấn về các tội phạm cụ thể, xác định trường hợp của mình đã đủ yếu tố cấu thành tội phạm hay chưa?..., để được tư vấn cụ thể về vấn đề này, quý khách có thể liên hệ với công ty Luật Minh Gia để được bộ phận tư vấn pháp luật hình sự của Luật Minh Gia hỗ trợ giải đáp cụ thể các vướng mắc của mình. Ngoài ra, quý khách có thể tham khảo nội dung Luật Minh Gia đã tư vấn dưới đây:

Nội dung câu hỏi:

Kính gửi văn phòng luật sư. Em và chồng em đã đăng ký kết hôn ngày 29/6/2016 tại nơi chồng em ở. Nhưng đến nay em chưa nhập hộ khẩu về đây. Sau khi kết hôn em liên tục bị số điện thoại lạ nhắn tin quấy rối và nói xấu chồng em và còn dùng những lời tục tĩu để nhắn tin cho em. Em có nhắn tin hỏi lại tên họ nhưng không nói. Nên em nhắn tin lại là không tin và bảo đừng làm phiến em nữa. Em chặn số điện thoại thì người đó dùng số khác nhắn tin tiếp và còn chửi em “mất dạy”. Ngoài ra, trong tin nhắn người đó còn nói tên một người khác là “chị T”, người đó nói là tìm chị T để biết sự thật về vợ chồng em, rồi nói chị T muốn giúp đỡ chồng em trả nợ nhưng thấy chồng em có vợ nên thôi không giúp nữa. Sau đó người đó nhắn tin luôn cho chồng em nói là tại em nói chuyện “mất dạy” nên chồng em sẽ chịu hậu quả. Người đó còn nhắn tin đe dọa ném phân vào nhà em mỗi ngày. Hôm qua em đi làm về thì gặp bọc phân để trước cửa nhà em. Chồng em thấy vậy nên điện thoại chị T nói là “chị đừng nhắn tin nữa, vợ tui biết hết rồi, công an đang khoanh vùng bà đó”. Nhưng thật ra em chưa báo công an, vợ chồng em chỉ khoanh vùng nghi ngờ vì trong tin nhắn có nhắc tên chị T, vì những thông tin liên quan đến chị T nếu chị T không nhắn tin thì chị T cũng có nói chuyện với người đã nhắn tin, vợ chồng em chỉ muốn thông qua câu nói đó để dừng việc nhắn tin quấy rối lại. Chị T sau khi nghe điện thoại thì làm đơn kiện chồng em  hành vi vu khống và nói là lời nói của em làm ảnh hưởng đến công việc của chồng em. Luật sư cho em hỏi:

1/ Nếu chị T kiện thì chồng em có bị vi phạm không? (Chị ấy nói chị ấy tội gì mà báo công an khoanh vùng?) Nếu có thì bị xử lý ra sao và cần những bằng chứng gì để chứng minh chồng em có tội?

2/ Em chưa nhập hộ khẩu thì có quyền gửi đơn kiện lên công an nơi nhà chồng có hộ khẩu để được bảo vệ vì bị quấy rối hay không?

Trả lời:

Cảm ơn chị đã tin tưởng và gửi câu hỏi cần tư vấn tới Công ty Luật Minh Gia, với trường hợp chị đang vướng mắc Luật Minh Gia tư vấn như sau:

Thứ nhất, về vấn đề chị T khởi kiện chồng chị đến cơ quan có thẩm quyền

Theo thông tin chị cung cấp, chồng chị có gọi điện thoại, trao đổi với chị T về việc yêu cầu dừng nhắn tin và thông báo đã trình báo vụ việc lên cơ quan công an. Tuy nhiên, đây chỉ là lời trao đổi giữa chồng chị và chị T với mục đích để xác định người thực hiện hành vi nhắn tin đe dọa chị, thực tế chồng chị chưa trình báo vụ việc, cũng không lan truyền các thông tin này một cách phổ biển rộng rãi, do đó chưa đủ căn cứ để kết luận hành vi này của chồng chị là vi phạm pháp luật.

Hiện nay, tại Điều 156 Bộ luật hình sự 2017 (sửa đổi, bổ sung 2017) có quy định về tội vu khống, theo đó, người nào có hành vi bịa đặt hoặc loan truyền những điều biết rõ là sai sự thật nhằm xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác hoặc bịa đặt người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền thì có căn cứ để truy cứu trách nhiệm về hành vi vu khống. Cụ thể Điều 156 quy định như sau:

“1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm:

a) Bịa đặt hoặc loan truyền những điều biết rõ là sai sự thật nhằm xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác;

b) Bịa đặt người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền.

…”

Với thông tin chị cung cấp, hành vi của chồng chị không đủ yếu tố cấu thành tội vu khống đã nêu trên, do đó chưa đủ căn cứ để xử lý hành vi này.

Thứ hai, quyền gửi đơn đến cơ quan công an trình báo về hành vi quấy rối

Tại Điều 146 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 có quy định về thủ tục tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố như sau:

“1. Khi cơ quan, tổ chức, cá nhân trực tiếp tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có thẩm quyền quy định tại khoản 2 Điều 145 của Bộ luật này phải lập biên bản tiếp nhận và ghi vào sổ tiếp nhận; có thể ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh việc tiếp nhận.

Trường hợp tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố gửi qua dịch vụ bưu chính, điện thoại hoặc qua phương tiện thông tin khác thì ghi vào sổ tiếp nhận.

2. Trường hợp phát hiện tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố không thuộc thẩm quyền giải quyết của mình thì Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có trách nhiệm chuyển ngay tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố kèm theo tài liệu có liên quan đã tiếp nhận cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền.

...”

Ngoài ra, tại Điều 163 Bộ Luật tố tụng hình sự 2015 có quy định về thẩm quyền điều tra như sau:

“…

4. Cơ quan điều tra có thẩm quyền điều tra những vụ án hình sự mà tội phạm xảy ra trên địa phận của mình. Trường hợp tội phạm được thực hiện tại nhiều nơi khác nhau hoặc không xác định được địa điểm xảy ra tội phạm thì việc điều tra thuộc thẩm quyền của Cơ quan điều tra nơi phát hiện tội phạm, nơi bị can cư trú hoặc bị bắt.

…”

Hiện nay, pháp luật không có quy định chỉ được tố giác, tố cáo… hành vi phạm tội tại nơi người trình báo thường trú hoặc tạm trú. Căn cứ theo quy định nêu trên thì khi tiếp nhận tố giác, tố cáo… cơ quan có thẩm quyền phải tiếp nhận thông tin, nếu không thuộc thẩm quyền của mình thì cơ quan có thẩm quyền có trách nhiệm chuyển vụ việc đến cơ quan có thẩm quyền để tiến hành giải quyết theo quy định.

Như vậy, với trường hợp của chị, hiện tại chị không có hộ khẩu hay tạm trú tại nhà chồng nhưng căn cứ theo quy định trên chị vẫn được quyền gửi đơn trình báo trường hợp của mình lên cơ quan công an xã (phường) hoặc công an cấp quận (huyện) nơi nhà chồng chị có hộ khẩu để yêu cầu cơ quan có thẩm quyền hỗ trợ giải quyết.

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

0971.166.169