Tội vi phạm chế độ hôn nhân một vợ, một chồng theo quy định pháp luật?
Thời gian sau tôi phát hiện họ ngoại tình với nhau vì tôi đọc được những tin nhắn đó, chồng đã hứa là không qua lại với cô kia nữa, nhưng tôi muốn cô kia chuyển đi. Đến nay cũng mấy tháng rồi nhưng cô kia vẫn một mực không chuyển với lí do nhà thuốc thì khó chuyển địa điểm, tôi có nhắn tin cho cô ta và bảo rằng nếu không chuyển đi thì phải trả giá tiền thuê nhà cho tôi cao vào. Nếu không đi cũng không đồng ý tăng tiền thuê nhà thì tôi sẽ gửi bằng chứng ngoại tình của cô ta cho bạn bè cô ta, cho chồng cô ta và đến viện nơi cô ta làm việc để kiện?
Vậy cho tôi hỏi tôi có thể kiện cô ta tội thuê nhà tôi rồi ngoại tình với chồng tôi không? Và xin hỏi tôi nhắn tin cho cô ta như vậy có cấu thành tội tống tiền không? Vì tôi bảo nâng giá nhà thật cao nhưng để chị ta tự trả giá chứ cũng không đưa ra mức giá nào? Và để kiện chị ta tội ngoại tình với chồng tôi, tôi cần làm gì? Nếu tôi gửi những bằng chứng ngoại tình của chị ta cho bạn và chồng chị ta thì có phạm luật không?
Trả lời tư vấn: Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi đề nghị tư vấn tới công ty Luật Minh Gia, với trường hợp của bạn chúng tôi tư vấn như sau:
Theo thông tin cung cấp thì vợ, chồng bạn có cho một đối tượng (nữ dược sĩ) thuê lại một diện tích đất nhỏ trong diện tích đất thuê của mình để bán thuốc. Tuy nhiên, trong quá trình đó thì chồng bạn có qua lại với đối tượng trên (hành vi ngoại tình). Theo đó, khi có căn cứ chứng minh hành vi ngoại tình trên qua tin nhắn qua lại giữa hai người với nhau thì bạn có thể thông qua việc yêu cầu hai người trên phải dừng hành vi của mình lại chứ không có căn cứ để tố cáo/khởi kiện đối tượng trên về việc thuê nhà và rồi có hành vi ngoại tình với chồng bạn được.
Liên quan tới việc bạn gửi tin nhắn yêu cầu đối tượng nữ trên trả lại nhà thuê dời đi, trường hợp không chuyển đi thì phải trả giá tiền thuê nhà cao lên (không đưa ra số tiền cụ thể) nếu không sẽ gửi bằng chứng ngoại tình cho gia đình họ biết, thì sẽ phải xác định mục đích của bạn có phải là nhằm chiếm đoạt tài sản hay không. Trong trường hợp này nếu vì mục đích chiếm đoạt tài sản (mặc dù trước đó là yêu cầu trả lại nhà thuê nhưng sau đó không thực hiện sẽ buộc phải trả tiền cao) và dùng các thủ đoạn để uy hiếp tinh thần để đe dọa tố cáo các hành vi vi phạm hoặc công bố những bí mật đời tư (tin nhắn ngoại tình) cho gia đình bao gồm chồng, bạn bè của họ biết dẫn tới họ lo sợ nếu không trả tiền cao lên thì việc cá nhân của mình sẽ bị mọi người biết tới (dù bạn đã nhận tiền hay chưa nhận thì cũng không ảnh hưởng tới việc truy cứu trách nhiệm vì đây là tội có cấu thành hình thức nên không bắt buộc phải có được hậu quả là chiếm đoạt tài sản mà chỉ cần đáp ứng đủ điều kiện về mục đích, hành vi). Do vậy, trong trường hợp của bạn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cưỡng đoạt tài sản theo quy định của Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Cụ thể:
“Điều 170. Tội cưỡng đoạt tài sản
1. Người nào đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ;
d) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
đ) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
e) Tái phạm nguy hiểm...”
- Truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi vi phạm chế độ hôn nhân một vợ, một chồng.
Theo quy định của Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 về tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng. Cụ thể:
“Điều 182. Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng
1. Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm:
a) Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn;
b) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm...”
Như vậy, pháp luật chỉ truy cứu trách nhiệm đối với hành vi chung sống như vợ chồng với nhau mà biết rõ mình hoặc đối phương đang tồn tại một quan hệ hôn nhân hợp pháp và đươc pháp luật công nhận dẫn tới hậu quả nghiêm trọng (hôn nhân tan vỡ, vợ, chồng, con phải tự sát..). Theo đó, chung sống như vợ chồng được hiểu là việc người đang có vợ, có chồng chung sống với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà lại chung sống với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ một cách công khai hoặc không công khai nhưng cùng sinh hoạt chung như một gia đình. Việc chung sống như vợ chồng thường được chứng minh bằng việc có con chung, được hàng xóm và xã hội xung quanh coi như vợ chồng, có tài sản chung đã được gia đình cơ quan, đoàn thể giáo dục mà vẫn tiếp tục duy trì quan hệ đó...
Theo đó, với trường hợp của bạn nếu căn cứ chứng minh duy nhất của bạn chỉ là tin nhắn và lời thú nhận của chồng về hành vi ngoại tình của mình nhưng trên thực tế hai người họ không hề phát sinh chung sống công khai với nhau, có con chung..thì bạn cũng không thể khởi kiện để truy cứu trách nhiệm về hành vi của hai đối tượng trên được vì không có căn cứ để thụ lý giải quyết (không có chế tài xử lý đối với hành vi ngoại tình). Nhưng bạn có thể trình báo tới cơ quan công an địa phương để họ yêu cầu dừng hành vi của hai đối tượng trên lại (trách nhiệm sẽ do cả chồng và đối tượng nữ dược sĩ kia cùng phải chịu)
- Tội làm nhục người khác.
Trong trường hợp bạn cung cấp bằng chứng ngoại tình của đối tượng trên cho bạn và chồng của họ biết để nhằm xúc phạm danh dự, nhân phẩm thì hành vi đó được xác định là hành vi vi phạm pháp luật và tùy từng mức độ nghiêm trọng, hậu quả do mình gây ra mà có thể bị áp dụng hình thức xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự về tội làm nhục người khác theo quy định tại Điều 155 BLHS 2015 như sau:
“Điều 155. Tội làm nhục người khác
1. Người nào xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm:
a) Phạm tội 02 lần trở lên;
b) Đối với 02 người trở lên;...”
Trân trọng!
CV P.Gái - Công ty Luật Minh Gia.
Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất