Luật sư Nguyễn Mạnh Tuấn

Thời hạn điều tra vụ án hình sự là bao lâu?

Thời hạn điều tra là khoảng thời gian tối đa do pháp luật quy định mà trong khoảng thời gian đó, cơ quan điều tra có thẩm quyền được thực hiện các hoạt động điều tra nhằm xác định tội phạm, người thực hiện hành vi phạm tội và những tình tiết khác của vụ án, hoàn thành việc điều tra vụ án hình sự.

I. Tư vấn quy định về thời hạn điều tra

Nếu bạn đang có nhu cầu kiểm tra các quy định của pháp luật liên quan đến thời hạn điều tra một vụ án hình sự hoặc có vướng mắc về các vấn đề khác liên quan đến hình sự thì bạn có thể liên hệ với công ty Luật Minh Gia để được chúng tôi hỗ trợ tư vấn về các vấn đề liên quan đến pháp luật hình sự.

Hiện nay, công ty Luật Minh Gia có hỗ trợ khách hàng tư vấn về các vấn đề liên quan đến hình sự như:

- Tư vấn về cấu thành tội phạm đối với các tội cụ thể;

- Thời hạn điều tra đối với từng nhóm tội phạm;

- Vấn đề án treo, điều kiện được hưởng án treo;

- Vấn đề xóa án tích, đương nhiên được xóa án tích;

- Và các vấn đề khác liên quan đến pháp luật hình sự.

II. Thời hạn điều tra vụ án hình sự

1. Thời hạn điều tra vụ án hình sự không quá 02 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá 03 tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá 04 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng kể từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc điều tra.

2. Trường hợp cần gia hạn điều tra do tính chất phức tạp của vụ án thì chậm nhất là 10 ngày trước khi hết thời hạn điều tra, Cơ quan điều tra phải có văn bản đề nghị Viện kiểm sát gia hạn điều tra.

Việc gia hạn điều tra được quy định như sau:

a) Đối với tội phạm ít nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra một lần không quá 02 tháng;

b) Đối với tội phạm nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra hai lần, lần thứ nhất không quá 03 tháng và lần thứ hai không quá 02 tháng;

c) Đối với tội phạm rất nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra hai lần, mỗi lần không quá 04 tháng;

d) Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra ba lần, mỗi lần không quá 04 tháng.

3. Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng mà thời hạn gia hạn điều tra đã hết nhưng do tính chất rất phức tạp của vụ án mà chưa thể kết thúc việc điều tra thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có thể gia hạn thêm một lần không quá 04 tháng.

Đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền gia hạn thêm một lần không quá 04 tháng.

4. Trường hợp thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự, nhập vụ án thì tổng thời hạn điều tra không vượt quá thời hạn quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này.

5. Thẩm quyền gia hạn điều tra của Viện kiểm sát:

a) Đối với tội phạm ít nghiêm trọng thì Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, Viện kiểm sát quân sự khu vực gia hạn điều tra. Trường hợp vụ án do Cơ quan điều tra cấp tỉnh, Cơ quan điều tra cấp quân khu thụ lý điều tra thì Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu gia hạn điều tra;

b) Đối với tội phạm nghiêm trọng thì Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, Viện kiểm sát quân sự khu vực gia hạn điều tra lần thứ nhất và lần thứ hai. Trường hợp vụ án do Cơ quan điều tra cấp tỉnh, Cơ quan điều tra cấp quân khu thụ lý điều tra thì Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu gia hạn điều tra lần thứ nhất và lần thứ hai;

c) Đối với tội phạm rất nghiêm trọng thì Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, Viện kiểm sát quân sự khu vực gia hạn điều tra lần thứ nhất; Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu gia hạn điều tra lần thứ hai. Trường hợp vụ án do Cơ quan điều tra cấp tỉnh, Cơ quan điều tra cấp quân khu thụ lý điều tra thì Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu gia hạn điều tra lần thứ nhất và lần thứ hai;

d) Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng thì Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu gia hạn điều tra lần thứ nhất và lần thứ hai; Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát quân sự trung ương gia hạn điều tra lần thứ ba.

6. Trường hợp vụ án do Cơ quan điều tra Bộ Công an, Cơ quan điều tra Bộ Quốc phòng, Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao thụ lý điều tra thì việc gia hạn điều tra thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát quân sự trung ương.

-------

III. Tình huống luật sư tư vấn pháp luật Hình sự trực tuyến

1. Xử lý thế nào ở giai đoạn điều tra khi bị lừa tiền qua mạng?

Câu hỏi:

Em có vào trang face để tìm hiểu để nhận việc về nhà làm, bên đó buộc đặt cọc lúc đầu 400k và sau đó nói chiều mai nhận hàng. Khi nhận hàng thì lại bảo nộp thêm 900 nghìn tiền làm hồ sơ, Một lúc sau thì đòi gửi thêm 1,5 triệu nữa bằng thẻ viettel, tiếp tục bảo nộp cho công ty thêm cho khi số tiền lên tới 8,8 triệu rồi nhân viên giao hàng sẽ hoàn lại tiền luôn mà không thấy giao hàng còn đòi nộp cho công ty thêm tiền lên đến 12,5 triệu nên em không nộp. Em mong luật sư tư vấn cho em để kiện họ, em không mong gì lấy lại số tiền đó nhưng để cho họ khỏi lừa tiền ng khác. Em cám ơn rất nhiều ạ.

Trả lời: Chào anh/chị, Đối với yêu cầu hỗ trợ của anh/chị chúng tôi tư vấn như sau:

Hiện tại, với thông tin bạn cung cấp, chúng tôi chưa thể khẳng định hành vi của những người kia có phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản hay không. Tuy nhiên, chúng tôi cung cấp cơ sở pháp lý về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 174 - Bộ luật Hình sự 2015 để bạn tham khảo như sau:

''Điều 174. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;

b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ''

Đối chiếu với quy định trên, hành vi của những người tuyển dụng chỉ cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nếu có thủ đoạn gian dối như đưa thông tin giả (thông tin tuyển dụng giả và họ không có mục đích tuyển dụng) nhằm chiếm đoạt tài sản của bạn trị giá 2.000.000 đồng trở lên. Hiện tại, chưa thể kết luận thông tin tuyển dụng họ đưa ra cũng những vấn đề đặt cọc, giao trước tiền có phải là thủ đoạn gian dối hay không, đồng thời bạn cũng không nói rõ bạn đã chuyển cho họ số tiền cụ thể là bao nhiêu.

Tuy nhiên, với những thông tin bạn cung cấp, dù chưa đủ khẳng định những người này đang lừa đảo chiếm đoạt tài sản của bạn nhưng có căn cứ để nghi ngờ hành vi của họ có dấu hiệu của tội phạm. Vì vậy, bạn có quyền làm đơn trình báo, tố giác tội phạm gửi đến cơ quan công an tại địa phương để được điều tra, làm rõ vụ việc.

Nếu cơ quan điều tra kết luận những đối tượng trên có hành vi phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì họ sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự và hoàn trả số tiền đã chiếm đoạt của bạn, đồng thời bồi thường thiệt hại phát sinh nếu có.

Trường hợp những người này có hành vi lừa đảo những chưa đến mức độ xử lý hình sự thì bị xử phạt vi phạm hành chính theo Nghị định 167/2013/NĐ-CP:

''Điều 15. Vi phạm quy định về gây thiệt hại đến tài sản của người khác

1. Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:

...

c) Dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản của người khác;

----

2. Xác định thời gian điều tra trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003

Câu hỏi:

Chào luật sư.Em có việc muốn nhờ luật sư tư vấn giúp không biết có phiền LS không ạ? Cách đây 2 3 tháng báo chí có đưa vụ gần 400 cây súng bị bắt ở Bàu Bàng, Bình Dương, chắc LS cũng có đọc qua. Chồng e là tài xế xe tải bị bắt đó,nhưng lời khai chồng e không biết gì cả, vì lúc nhận hàng thì chủ hàng nói là loa điện tử và tự bốc hàng lên xe luôn. Bên công an lập biên bản giam giữ xe và giấy tờ cmnd, bằng lái xe tất cả. Hiện tới giờ cũng hơn 2 tháng mà vẫn thấy chưa xét xử hay nói chồng e bị tội gì và phạt như thế nào hết. E mong LS tư vấn giúp e giờ gđ e làm sao ạ, và cho e hỏi theo quy định luật pháp thì trong bao lâu sẽ xét xử ạ. E cám ơn LS. Kính chào luật sư, em xin chân thành cảm ơn!

Trả lời tư vấn:

Cảm ơn chị đã gửi câu hỏi tư vấn đến Công ty Luật Minh Gia chúng tôi, chúng tôi xin tư vấn cho trường hợp của chị như sau:

Về vụ việc của chồng chị thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội được quy định trong Bộ luật hình sự sửa đổi 2009  như sau:

Điều 230. Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự

''1. Người nào chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự, thì bị phạt tù từ một năm đến bảy năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười hai năm:

a) Có tổ chức;

b) Vật phạm pháp có số lượng lớn;

c) Vận chuyển, sử dụng, mua bán qua biên giới;

d) Gây hậu qủa nghiêm trọng;

đ) Tái phạm nguy hiểm.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười năm đến mười lăm năm:

a) Vật phạm pháp có số lượng rất lớn;

b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười lăm năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:

a) Vật phạm pháp có số lượng đặc biệt lớn;

b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

5.  Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ một năm đến năm năm.''

Như trường hợp của chị hiện tại vẫn chưa có kết luận điều tra về hành vi của chồng chị; bên cạnh đó, lời khai của chồng chị về việc chồng chị không hể biết gì cả thì đó cũng chỉ là nguồn chứng cứ chứ không được lấy làm chứng cứ khi đưa ra xét xử. Và chính vì vậy, rất khó để xác định về thời gian để điều tra cho chồng chị lúc này là bao lâu vì rất có thể sẽ có thêm thời gian gia hạn điều tra; và về  thời gian trước khi đưa vụ án ra xét xử được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự 2003 như sau:

Điều 119. Thời hạn điều tra

''1. Thời hạn điều tra vụ án hình sự không quá hai tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá ba tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá bốn tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, kể từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc điều tra.

2. Trong trường hợp cần gia hạn điều tra do tính chất phức tạp của vụ án thì chậm nhất là mười ngày trước khi hết hạn điều tra, Cơ quan điều tra phải có văn bản đề nghị Viện kiểm sát gia hạn điều tra.

Việc gia hạn điều tra được quy định như sau:

a) Đối với tội phạm ít nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra một lần không quá hai tháng;

b) Đối với tội phạm nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra hai lần, lần thứ nhất không quá ba tháng và lần thứ hai không quá hai tháng;

c) Đối với tội phạm rất nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra hai lần, mỗi lần không quá bốn tháng;

d) Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra ba lần, mỗi lần không quá bốn tháng.''

Lúc này, vì không thể xác định được loại tội phạm mà trong vụ việc này chồng chị sẽ bị truy cứu trách nhiệm nên việc xác định thời gian cơ quan công an điều tra vụ việc này sẽ phụ thuộc vào kết luận của cơ quan điều tra về vụ việc này để xác định thời gian điều tra phù hợp. Theo đó, có thể dựa vào quy định pháp luật về phân loại tội phạm để xác định thời hạn điều tra như sau: Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù; tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù; tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù; tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.

----

3. Thời hạn điều tra và việc bồi thường thiệt hại theo quy định thế nào?

Câu hỏi:

Vào ngày 2/9/2015, bố em đang đi bộ trên đường thì bị xe máy tông vào. Bố em được đưa đi cấp cứu nhưng đến bệnh viện thì đã chết. Hiện trường nơi xảy ra vụ việc là nơi đông người, có nhiều người chứng kiến. Ngay tối hôm đó, công an ở địa phương em cũng đã đến xem xét hiện trường.

Đến nay đã là ngày 7/11/2015 nhưng khi gia đình em lên công an hỏi về vụ án họ vẫn trả lời là đang điều tra (trước đó nhiều lần gia đình em có lên hỏi nhưng họ cũng trả lời như vậy). Trong trường hợp này gia đình em nên làm gì để vụ án được giải quyết nhanh hơn? Gia đình em có nên gửi đơn lên công an tỉnh để họ giải quyết không? Nếu có, gia đình em nên gửi đơn gì ạ? Và nếu người đâm bố em bị kết luận là có tội thì người đâm đó phải bồi thường những gì cho gia đình em?

Trả lời:

Đầu tiên, Công ty Luật Minh Gia xin chân thành chia buồn cùng gia đình bạn. Mong gia đình bạn có thể vượt qua được khó khăn này trong thời gian sớm nhất. Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi đề nghị tư vấn đến Công ty, trường hợp của bạn chúng tôi tư vấn như sau:

Thời điểm sảy ra sự kiện pháp lý là năm 2015, do vậy theo Điều 202 Bộ luật Hình sự 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ được quy định như sau:

''1. Người nào điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:

a) Không có giấy phép hoặc bằng lái xe theo quy định;

b) Trong khi say rượu hoặc say do dùng các chất kích thích mạnh khác;

...''

Do vụ việc tai nạn chưa có kết luận của Cơ quan điều tra nên thông qua dữ liệu bố của bạn trong lúc “đưa đi cấp cứu nhưng đến bệnh viện thì đã chết” (gây thiệt hại cho tính mạng), có thể người gây ra tai nạn thuộc một trong ba trường hợp tại Khoản 1, 2, 3 Điều 202 Bộ luật Hình sự 1999.

Theo Khoản 3 Điều 8 Bộ luật Hình sự 1999 quy định:

Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù; tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù; tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù; tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.

Như vậy, khung hình phạt đối với các Khoản 1, 2, 3 của Điều 202 Bộ luật Hình sự như sau:

Khoản 1: Nghiêm trọng

Khoản 2: Rất nghiêm trọng

Khoản 3: Rất nghiêm trọng

Mà theo Khoản 1 Điều 199 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 quy định thời hạn điều tra:

Thời hạn điều tra vụ án hình sự không quá hai tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá ba tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá bốn tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, kể từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc điều tra.

Áp dụng vào trường hợp mà bạn nêu thì người gây tai nạn nếu thuộc Khoản 1 Điều 202 Bộ luật Hình sự 1999 thì thời hạn điều tra của Cơ quan điều tra là không quá 3 tháng, Khoản 2 không quá 4 tháng, Khoản 3 không quá 4 tháng. Nếu hết thời hạn gia hạn điều tra mà không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm thì Cơ quan điều tra phải ra quyết định đình chỉ điều tra (Khoản 6 Điều 1999 Bộ luật tố tụng hình sự 2003).

Trong khi đó thời gian xảy ra vụ việc là vào 2/9/2015, đến thời điểm 7/11/2015 là tầm 2 tháng 5 ngày chưa vượt quá thời gian mà pháp luật quy định tại Khoản 1, 2, 3 Điều 202. Chưa kể Cơ quan điều tra có thể gia hạn điều tra trong trường hợp cần thiết, tính chất vụ án phức tạp theo Khoản 2 Điều 199 Bộ luật tố tụng hình sự 2003.

Theo Khoản 4 Điều 110 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 thì Cơ quan điều tra cấp huyện điều tra những vụ án hình sự về những tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án nhân dân cấp huyện; Cơ quan điều tra cấp tỉnh điều tra những vụ án hình sự về những tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án nhân dân cấp tỉnh hoặc những vụ án thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra cấp dưới nhưng xét thấy cần trực tiếp điều tra.

Pháp luật không có quy định cụ thể những vụ án nào Cơ quan điều tra cấp tỉnh điều tra vụ án của Cơ quan điều tra cấp huyện khi xét thấy cần trực tiếp điều tra. Điều này phụ thuộc vào Cơ quan điều tra cấp tỉnh, năng lực của Cơ quan điều tra cấp huyện,… Vì vậy vụ tai nạn giao thông còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố để Cơ quan điều tra cấp tỉnh xem xét có cần trực tiếp điều tra hay không, không phụ thuộc vào ý chí của gia đình bạn, đồng thời thời gian điều tra vụ án vẫn chưa kết thúc.

Nếu người gây tai nạn giao thông dẫn đến thiệt hại về tính mạng của bố bạn bị kết luận là có tội thì người đó phải bồi thường thiệt hại theo Điều 610 Bộ luật dân sự 2005.

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

0971.166.169