Sử dụng hình ảnh vu khống bôi nhọ danh dự
1. Luật sư tư vấn về hành vi sử dụng hình ảnh để xúc phạm danh dự, nhân phẩm
Sử dụng hình ảnh của người khác nhằm xúc phạm danh dự, nhân phẩm là hành vi trái quy định của pháp luật và sẽ bị xử lý hành chính hoặc hình sự tùy theo mức độ vi phạm. Trên thực tế, hành vi sử dụng hình ảnh người khác để xúc phạm danh dự, nhân phẩm không phải hiếm gặp ở nước ta, tuy nhiên không phải ai cũng hiểm về mức độ nghiệm trọng và cách thức xử lý khi gặp các trường hợp như vậy.
Nếu bạn hoặc bạn bè, người thân của bạn đang có băn khoăn, thắc mắc về quy định pháp luật xử lý đối với hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm người khác, hãy liên hệ với Luật Minh Gia bằng cách gửi Email hoặc gọi Hotline: 1900.6169 để được các Luật sư, chuyên viên tư vấn hướng dẫn.
Ngoài ra, bạn có thể tham khảo tình huống tư vấn dưới đây để có thêm thông tin về pháp lý và đối chiếu với các trường hợp của mình.
2. Hỏi về hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm người khác
Câu hỏi: Gởi các luật sư. Gia đình em ở gia lai chồng và em trai em đi làm vì công việt không ổn định nên chồng và em trai em bỏ về . Trên đường về chồng và em trai em nhận được điện thoại từ nơi làm nói chồng và em trai em ăn trộm 2 điện thoại và laptop sau đó chồng và em trai e đòi quay lại nói chuyện thì họ bảo chồng và em trai em đi về đi không cần gặp sẽ có người chặn đường đánh chết chứ cần gì gặp . Sau đó chồng và em trai em lên xe về tiếp nhưng không có gì sảy ra . Về đến nhà thì phát hiện người đó dùng hình ảnh của em với con gái em với chồng và em trai em đăng lên facebook trên trang rao vặt nói là chồng và em trai em ăn trộm điện thoại iphone 5s bỏ trốn về . Nhưng thực chất chồng và em trai em lúc về có chào tất cả mọi người rồi về . Vậy luật sư cho em hỏi nếu như thế thì người đó có vi phạm pháp luật hay không ? Và phạm tội gì ? Và em và gia đình em làm gì để lấy lại công bằng cho cuộc sống gia đình em đc yên ổn hơn . Nếu như em kiện họ với chính quyền thì em phải viết đơn như thế nào . Nộp đơn ở đâu trong khi em ở gia lai mà người đó ở hà tĩnh ạ . Mong luật sự sớm phản hồi!
Trả lời tư vấn: Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi yêu cầu tư vấn đến Công ty Luật Minh Gia. Với trường hợp của bạn, chúng tôi tư vấn như sau:
Tại Điều 34 Bộ luật dân sự 2015 quy định như sau:
“Điều 34. Quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín
1. Danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ.
2. Cá nhân có quyền yêu cầu Tòa án bác bỏ thông tin làm ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của mình.
Việc bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín có thể được thực hiện sau khi cá nhân chết theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc con thành niên; trường hợp không có những người này thì theo yêu cầu của cha, mẹ của người đã chết, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác.
3. Thông tin ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân được đăng tải trên phương tiện thông tin đại chúng nào thì phải được gỡ bỏ, cải chính bằng chính phương tiện thông tin đại chúng đó. Nếu thông tin này được cơ quan, tổ chức, cá nhân cất giữ thì phải được hủy bỏ.
4. Trường hợp không xác định được người đã đưa tin ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của mình thì người bị đưa tin có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố thông tin đó là không đúng.
5. Cá nhân bị thông tin làm ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín thì ngoài quyền yêu cầu bác bỏ thông tin đó còn có quyền yêu cầu người đưa ra thông tin xin lỗi, cải chính công khai và bồi thường thiệt hại.”.
Theo quy định trên, danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ.Cá nhân có quyền yêu cầu Tòa án bác bỏ thông tin làm ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của mình.
Xem xét tình huống của bạn thì nếu trong trường hợp bên kia có những căn cứ chứng minh chồng chị và em trai chị có hành vi trộm cắp tài sản cụ thể là chiếc điện thoại Iphone 5S thì người đó có thể tố cáo hành vi trên với bên cơ quan công an để họ xem xét, điều tra chứ không được có hành vi đưa ảnh gia đình chị lên facebook.
Điểm d, e khoản 1 Điều 5 Nghị định số 72/2013/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng quy định: Nghiêm cấm các hành vi: “Đưa thông tin xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự và nhân phẩm của cá nhân”
Hành vi thóa mạ, bôi nhọ danh dự, nhân phẩm của người khác trên mạng xã hội là vi phạm pháp luật; tùy theo tính chất, mức độ vi phạm có thể bị xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự.
Thứ nhất, về xử phạt hành chính
Theo quy định tại điểm g Khoản 3 Điều 66 Nghị định 174/2013/NĐ-CP quy định: “Cung cấp, trao đổi, truyền đưa hoặc lưu trữ, sử dụng thông tin số nhằm đe dọa, quấy rối, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác;” sẽ bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng.
Thứ hai, về trách nhiệm hình sự
Những hành vi bôi nhọ danh dự, nhân phẩm của người khác một cách nghiêm trọng nói trên có thể cấu thành “tội làm nhục người khác” hoặc “tội vu khống” theo quy định tại Điều 155, Điều 156 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 như sau:
“Điều 155. Tội làm nhục người khác
1. Người nào xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm:
a) Phạm tội 02 lần trở lên;
b) Đối với 02 người trở lên;
c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
d) Đối với người đang thi hành công vụ;
đ) Đối với người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, chữa bệnh cho mình;
e) Sử dụng mạng máy tính hoặc mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội;
…”.
“Điều 156. Tội vu khống
1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm:
a) Bịa đặt hoặc loan truyền những điều biết rõ là sai sự thật nhằm xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác;
b) Bịa đặt người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 03 năm:
a) Có tổ chức;
b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
c) Đối với 02 người trở lên;
d) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh cho mình;
đ) Đối với người đang thi hành công vụ;
e) Sử dụng mạng máy tính hoặc mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội;
…”.
Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất