Nghỉ ốm đau có được công vào thời hạn báo trước khi nghỉ việc?
Mục lục bài viết
1. Tư vấn về việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động
Hợp đồng lao động là sự thoả thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động về việc làm có trả lương, điều kiện làm việc, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trong quan hệ lao động. Sau khi giao kết hợp đồng lao động, các bên phải bằng hành vi của mình thực hiện nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng, về nguyên tắc mỗi bên phải thực hiện đúng, đầy đủ và thiện chí tạo điểu kiện để bên kia thực hiện hợp đồng lao động.
Tuy nhiên trong quá trình thực hiện hợp đồng, vì nhiều lí do khác nhau mà một trong các bên thường muốn chấm dứt hoặc thay đổi nội dung trong hợp đồng. Đặc biệt là vấn đề đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, đã và đang là một trong những vấn đề được đông đảo người lao động qua tâm trong thời gian gần đây. Vậy quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động được pháp luật quy định thế nào? Nghỉ ốm đau có được công vào thời hạn báo trước khi chấm dứt hợp đồng không? Nếu bạn gặp vấn đề này nhưng không có thời gian tìm hiểu quy định của pháp luật, bạn hãy liên hệ đến công ty Luật Minh Gia, luật sư sẽ tư vấn cho bạn những nội dung sau:
+ Về chế độ ốm đau ;
+ Quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động ;
+ Nghĩa vụ của người lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng trái luật ;
2. Nghỉ ốm đau có được công vào thời hạn báo trước khi chấm dứt hợp đồng không?
Câu hỏi:
Tôi có câu hỏi về luật lao động mong Công ty Luật Minh Gia giúp tôi giải đáp những thắc mắc như sau: Trước đây tôi làm tại một Công ty và đã ký hợp đồng vô thời hạn. Đến tháng 5/2014 tôi viết đơn xin nghỉ với thời gian báo trước là 45 ngày nhưng sau 15 ngày kể từ ngày viết đơn tôi đã thôi việc ở tại Công ty cũ (tức là tôi đã nghỉ trước 30 ngày so với quy định).
Ngay sau khi nghỉ ở Công ty cũ tôi chuyển sang làm việc cho một Công ty mới và trong thời gian 30 ngày phải báo trước kia tôi đều xin phép + nộp những bằng chứng xin nghỉ là các giấy hưởng bảo hiểm xã hội đến Công ty cũ.
Hiện tại đến nay là hơn 1 năm nhưng phía Công ty cũ vẫn chưa trả sổ BHXH cho tôi với lý do tôi vi phạm hợp đồng (vi phạm thời gian báo trước khi nghỉ). Họ nói rằng đã xin được xác nhận của Công ty mới của tôi về việc trong thời gian 30 ngày còn hợp đồng tôi đã đi làm cho Công ty khác. Họ yêu cầu tôi bồi thường 1 tháng lương + số ngày vi phạm không báo trước.
Vậy tôi muốn hỏi:
1. Khi tôi vẫn nộp đầy đủ giấy nghỉ ốm hưởng bảo hiểm xã hội cho Công ty cũ mà lại đi làm ở Công ty mới trong ngày đó thì có vi phạm luật hay không? Những ngày đó có được bảo hiểm chấp nhận trả tiền BH hay không?
2. Nếu điều 1 là vi phạm luật thì những mục tôi phải bồi thường sẽ như thế nào? Như phía Công ty cũ yêu cầu là đúng hay sai?
3. Tôi phải giải quyết như thế nào để lấy được sổ BH?
Kính mong Quý Công ty giúp tôi trả lời những thắc mắc trên. Trân trọng cảm ơn!
Trả lời:
Cảm ơn chị đã gửi câu hỏi đề nghị tư vấn đến Công ty Luật Minh Gia, trường hợp của chị chúng tôi tư vấn như sau:
Thứ nhất, về chế độ ốm đau:
Điều 22. Luật BHXH 2006 quy định - Điều kiện hưởng chế độ ốm đau
1. Bị ốm đau, tai nạn rủi ro phải nghỉ việc và có xác nhận của cơ sở y tế.
Trường hợp ốm đau, tai nạn phải nghỉ việc do tự huỷ hoại sức khoẻ, do say rượu hoặc sử dụng ma tuý, chất gây nghiện khác thì không được hưởng chế độ ốm đau.
2. Có con dưới bảy tuổi bị ốm đau, phải nghỉ việc để chăm sóc con và có xác nhận của cơ sở y tế.
Theo đó, chị chỉ được hưởng chế độ ốm đau nếu đáp ứng các điều kiện quy định tại Điều 22 luật BHXH nêu trên, trong đó có điều kiện “có xác nhận của cơ sở y tế”, đây là căn cứ để xác minh tình hình thực tế của người lao động. Nếu bên cơ quan bảo hiểm phát hiện có sự gian dối, giả mạo giấy tờ của cơ sở y tế để nghỉ việc thì chị không được hưởng chế độ ốm đau theo quy định.
Thứ hai, về quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động.
Điều 37. Bộ luật Lao động 2012 - Quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động
….
3. Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, nhưng phải báo cho người sử dụng lao động biết trước ít nhất 45 ngày, trừ trường hợp quy định tại Điều 156 của Bộ luật này.”
Theo thông tin chị cung cấp, khi chị chấm dứt hợp đồng, chị chỉ báo trước 15 ngày, 30 ngày còn lại chị nộp các giấy tờ chứng minh tình trạng ốm đau để không đi làm.
Nếu thực sự chị bị ốm đau, có xác nhận của cơ sở y tế thì trường hợp của chị không vi phạm quy định về thời hạn báo trước. Vì trong khoảng thời gian từ khi báo trước đến khi chấm dứt hợp đồng trên thực tế (sau 45 ngày) thì chị vẫn là người lao động và vẫn được hưởng các chế độ bảo hiểm (trong đó có chế độ ốm đau).
Nếu bên công ty chứng minh được chị không ốm đau mà đã tạo giấy tờ giả để nghỉ việc thì chị không được hưởng chế độ ốm đau và thuộc trường hợp vi phạm về thời hạn báo trước khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động.
Thứ ba, về nghĩa vụ của người lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng trái luật:
Điều 43. Nghĩa vụ của người lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật
1. Không được trợ cấp thôi việc và phải bồi thường cho người sử dụng lao động nửa tháng tiền lương theo hợp đồng lao động.
2. Nếu vi phạm quy định về thời hạn báo trước thì phải bồi thường cho người sử dụng lao động một khoản tiền tương ứng với tiền lương của người lao động trong những ngày không báo trước.
3. Phải hoàn trả chi phí đào tạo cho người sử dụng lao động theo quy định tại Điều 62 của Bộ luật này.
Như vậy, nếu chị vi phạm thời gian báo trước thì chị phải bồi thường ½ tháng lương theo hợp đồng lao động + khoản tiền tương ứng với tiền lương những ngày không báo trước.
Ngoài ra, nếu trong hợp đồng lao động có quy định về bồi thường chi phí đào tạo thì chị còn phải bồi thường theo quy định.
Thứ tư, về vấn đề chốt trả sổ bảo hiểm.
Điều 47 – Bộ luật lao động 2012. Trách nhiệm của người sử dụng lao động khi chấm dứt hợp đồng lao động
2. Trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày chấm dứt hợp đồng lao động, hai bên có trách nhiệm thanh toán đầy đủ các khoản có liên quan đến quyền lợi của mỗi bên; trường hợp đặc biệt, có thể kéo dài nhưng không được quá 30 ngày.
3. Người sử dụng lao động có trách nhiệm hoàn thành thủ tục xác nhận và trả lại sổ bảo hiểm xã hội và những giấy tờ khác mà người sử dụng lao động đã giữ lại của người lao động.
Theo quy định trên, chị có thể làm đơn khiếu nại gửi đến ban giám đốc yêu cầu họ giải trình về việc tại sao không trả sổ BHXH cho chị và căn cứ và quy định nào của pháp luật. Khi đó, công ty sẽ phải trả lời bằng văn bản cho bạn về việc trả sổ BHXH. Nếu như họ trả lời không thỏa đáng, chị có thể làm đơn gửi đến phòng lao động thương binh xã hội quận/huyện nơi công ty chị có trụ sở yêu cầu họ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình.
Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất