Luật sư Đào Quang Vinh

Luật sư tư vấn về hành vi cố ý gây thương tích

Mẹ vợ ông Xuân có nợ gia đình tôi số tiền, ông Xuân điện thoại nhiều lần đe dọa nếu "để chuyện đến tai bố vợ thì sẽ không để cho tôi yên", sau đó tôi có gọi ông Xuân ra hỏi tại sao lại đe dọa tôi thì vợ ông Xuân chạy ra cãi nhau với tôi và mẹ tôi, sau đó bắt ngờ đánh mẹ tôi té quỵ xuống.

Khi được can ngăn thoát khỏi vợ ông xuân mẹ tôi cảm giác rát ở cổ nhìn lại thì sợi dây chuyền đã bị mất. Sau đó truy hô thì vợ ông xuân chạy vào nhà. Mẹ tôi giám định 11% thương tích. Vậy mẹ tôi có được bồi thường theo đúng pháp luật không?
 

Trả lời: Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi đề nghị tư vấn đến Công ty Luật Minh Gia, trường hợp của bạn chúng tôi tư vấn như sau:

 

Bộ luật Hình sự 2015 có quy định về tội cố ý gây thương tích như sau:

 

Điều 134. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

 

1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

 

a) Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người;

 

b) Dùng a-xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm;

 

c) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;

 

d) Đối với ông, bà, cha, mẹ, thầy giáo, cô giáo của mình, người nuôi dưỡng, chữa bệnh cho mình;

 

đ) Có tổ chức;

 

e) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

 

g) Trong thời gian đang bị giữ, tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành án phạt tù, đang chấp hành biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng hoặc đang chấp hành biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng hoặc đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc;

 

h) Thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do được thuê;

 

i) Có tính chất côn đồ;

 

k) Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.


Chiếu theo quy định trên, việc xác định tỷ lệ thương tật là cơ sở cho việc có truy cứu trách nhiệm hình sự hay không, theo như thông tin bạn cung cấp, giám định thương tật cho mẹ bạn là 11%, qua đó cho thấy vợ ông Xuân đã phạm vào tội cố ý gây thương tích theo khoản 1 Điều 134 BLHS. Theo đó, người có hành vi phạm tội bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.

 

Từ tình tiết sau khi xảy ra xô xát, mẹ bạn cảm giác rát ở cổ nhìn lại thì sợi dây chuyền đã bị mất, sau đó truy hô thì vợ ông X chạy vào nhà chưa đủ để kết luận sợi dây chuyền có phải do vợ ông X lấy hay không. Bởi căn cứ vào giá trị của sợi dây truyền, nếu đúng do vợ ông Xlấy rồi chạy vào nhà thì việc định tội sẽ theo một hướng khác, nếu mẹ bạn và bạn cho rằng vợ ông Xuân đã giật sợi dây chuyền trong lúc xô xát thì có thể yêu cầu cơ quan công an tiến hành điều tra, bạn cần cung cấp các chứng cứ cần thiết như giá trị sợi dây chuyền bị mất, thời điểm nhìn thấy sợi dây chuyền cuối cùng, nếu có người làm chứng thì càng tăng giá trị của chứng cứ. Nếu có căn cứ cho rằng vợ ông X giật mất sợi dây chuyền thì có thể người này đã phạm tội cướp giật tài sản theo quy định tại Điều 171 – Bộ luật Hình sự 2015:

 

Điều 171. Tội cướp giật tài sản

 

1. Người nào cướp giật tài sản của người khác, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

 

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:

 

a) Có tổ chức;

 

b) Có tính chất chuyên nghiệp;

 

c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;

 

d) Dùng thủ đoạn nguy hiểm;

 

đ) Hành hung để tẩu thoát;

 

e) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30%;

 

g) Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ;

 

h) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

 

i) Tái phạm nguy hiểm.


Về căn cứ bồi thường được quy định tại Điều 584 BLDS 2015, trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi có thiệt hại xảy ra, có hành vi trái pháp luật, có lỗi của người gây thiệt hại và phải có mối quan hệ nhân quả. Mẹ bạn giám định thương tật 11% từ hành vi cố ý của vợ ông X, đã gây tổn hại đến sức khoẻ của người bị hại. Về nguyên tắc, bồi thường thiệt hại được quy định tại Điều 590 BLDS 2015:

 

Điều 590. Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm

 

1. Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm bao gồm:

 

a) Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại;

 

b) Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; nếu thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại;

 

c) Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần phải có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại;

 

d) Thiệt hại khác do luật quy định.

 

2. Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp sức khỏe của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có sức khỏe bị xâm phạm không quá năm mươi lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.

 

Theo đó, mức bồi thường và hình thức bồi thường sẽ do các bên thoả thuận, bao gồm chi phí phục hồi sức khoẻ, thu nhập hợp pháp thực tế bị mất hoặc giảm sút... Nếu không thể thoả thuận được, có thể yêu cầu Toà án giải quyết.

 

Trân trọng!

Phòng luật sư tư vấn - Công ty Luật Minh Gia

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

Tư vấn nhanh