Luật sư tư vấn về cho vay lãi suất cao, vượt quá quy định của pháp luật
Trả lời: Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi cần tư vấn tới Công ty Luật Minh Gia, với thắc mắc của bạn chúng tôi tư vấn như sau:
Điều 463 Bộ luật dân sự 2015 quy định về hợp đồng vay tài sản như sau:
“Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định.”
Bên canh đó, ĐIều 466 Bộ luật dân sự 2015 quy định về lãi suất như sau:
“1. Lãi suất vay do các bên thỏa thuận.
Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác. Căn cứ tình hình thực tế và theo đề xuất của Chính phủ, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định điều chỉnh mức lãi suất nói trên và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất.
Trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn được quy định tại khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực.
2. Trường hợp các bên có thỏa thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất và có tranh chấp về lãi suất thì lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều này tại thời điểm trả nợ.”
Như vậy, căn cứ theo quy định đã nêu trên thì lãi suất các bên được phép cho vay là không qus 20%/năm và không quá 1,67%/tháng.
Điều 201 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) quy định về Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự như sau:
“1. Người nào trong giao dịch dân sự mà cho vay với lãi suất gấp 05 lần trở lên của mức lãi suất cao nhất quy định trong Bộ luật dân sự, thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.”
Với trường hợp của bạn, bên cho vay cho bạn vay với mức lãi suất 15%/tháng là đã quá 8,9 lần mức lãi suất cơ bản pháp luật cho phép các bên thỏa thuận. Tuy nhiên, theo thông tin bạn cung cấp, bên cho vay đã giảm lãi suất 4 tháng cho bạn xuống còn 20 triệu, đồng thời hiện tại bạn đang trả cả gốc và lãi do đó có thể thấy bên cho vay chưa thu được toàn bộ tiền lãi. Do vậy, trường hợp này chưa đủ căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự với bên cho vay.
Nếu bên cho vay khởi kiện ra cơ quan có thẩm quyền thì bạn có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ trả nợ, nếu bạn không thực hiện đúng nghĩa vụ thì cơ quan có thẩm quyền sẽ cưỡng chế thi hành án buộc bạn thực hiện nghĩa vụ.
----------------
Bạn có thể tham khảo thêm nội dung tư vấn áp dụng theo quy định của Bộ luật hình sự 1999
Thứ nhất, theo Điều 471 Bộ luật dân sự năm 2005, hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay, khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định. Và theo quy định tại khoản 1 điều 476 về lãi suất cho vay thì :´" Lãi suất vay do các bên thỏa thuận nhưng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay tương ứng ". Lãi suất cho vay cụ thể còn phụ thuộc bạn vay tiền để sử dụng với mục đích gì tuy nhiên trong trường hợp này, lãi suất 15% trong trường hợp này đã vượt quá lãi suất cho phép của pháp luật.
Về tội cho vay nặng lãi, pháp luật có quy định tại điều 163 bộ luật hình sự:
"1. Người nào cho vay với mức lãi suất cao hơn mức lãi suất cao nhất mà pháp luật quy định từ mười lần trở lên có tính chất chuyên bóc lột, thì bị phạt tiền từ một lần đến mười lần số tiền lãi hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến một năm.
2. Phạm tội thu lợi bất chính lớn thì bị phạt tù từ 6 tháng đến ba năm.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ một đến năm lần số lợi bất chính, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm"
Trong trường hợp này, người cho mẹ bạn vay tiền đã có dấu hiệu tội cho vay nặng lãi. Vì vậy, bạn có thể nhờ đến sự can thiệp của pháp luật trong trường hợp này.
Trân trọng!
Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất