LS Hồng Nhung

Luật sư tư vấn đồng phạm tội đánh bạc công nghệ cao.

Giúp người khác đánh bạc bằng máy tính của mình có phải chịu trách nhiệm hình sự không? Mức hình phạt phải chịu như thế nào? Luật Minh Gia tư vấn như sau:

 

Nội dung tư vấn: Đợt trước có anh bạn lấy 1 trang cá cược bóng đá để chơi, vì sợ vợ phát hiện nên mỗi lần muốn đánh trận nào thì anh ta nhắn tin cho em mật khẩu để nhờ em đăng nhập bằng máy tính của nhà em để đánh kèo, số tiền đặt kèo do anh ta hướng dẫn, mọi việc thắng hay thua anh ta thanh toán với ai thì em không biết, và em cũng hoàn toàn không hưởng 1 xu nào từ việc lợi nhuận từ cá cược cả, số tiền cược mã lớn nhất là trên 50 triệu vnd, đợt vừa rồi công an lần theo địa chỉ IP đến nhà và em bị bắt về tội đánh bạc công nghệ cao, trong bản cung em khai hoàn toàn sự thật như trên và anh ta cũng bị bắt và cũng khai nhận là em chỉ là người anh ta nhờ đăng nhập đánh hộ kèo cho anh ấy, em bị bắt giam và đang chờ ngày ra tòa (hiện tại em xin tại ngoại về đợi ngày xử).

Em xin nhờ luật sư tư vấn hộ em về tội của em như thế nào ạ? Em xin cám ơn!

 

Trả lời tư vấn: Chào bạn, cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi đề nghị tư vấn đến Công ty Luật Minh Gia, trường hợp của bạn chúng tôi tư vấn như sau:

 

Căn cứ thông tin bạn cung cấp, mặc dù tài khoản đánh bạc không phải là tài khoản của bạn và bạn không nhận được lợi ích gì từ hoạt động cá cược; tuy nhiên bạn lại thực hiện các thao tác giúp cho người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội của mình. Do đó, hành vi của bạn có thể sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự với vai trò đồng phạm (người giúp sức) của tội đánh bạc. Điều 17 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung 2017 quy định về đồng phạm như sau:

 

“Điều 17. Đồng phạm

 

1. Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm.

...

3. Người đồng phạm bao gồm người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức.

...

Người giúp sức là người tạo điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm.

...”

Và Điều 321 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung 2017 quy định về tội đánh bạc như sau:

 

“Điều 321. Tội đánh bạc

 

1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

 

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:

 

a) Có tính chất chuyên nghiệp;

 

b) Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc trị giá 50.000.000 đồng trở lên;

 

c) Sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội;

 

d) Tái phạm nguy hiểm.

 

3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.”

 

Như vậy, tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng của hành vi giúp sức đó, Tòa án có thể xem xét quyết định hình phạt theo quy định nêu trên. Trường hợp bạn có nhiều tình tiết giảm nhẹ thì Tòa án có thể xem xét quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng theo quy định tại Điều 54 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung 2017:

 

“Điều 54. Quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng

 

1. Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật này.

 

2. Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể.

 

3. Trong trường hợp có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 Điều này nhưng điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất, thì Tòa án có thể quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án.”

 

Trên đây là nội dung tư vấn của Luật Minh Gia về vấn đề bạn yêu cầu tư vấn. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ qua Email hoặc gọi điện đến bộ phận luật sư tư vấn trực tuyến để được giải đáp, hỗ trợ kịp thời.

 

Trân trọng 

Phòng Luật sư tư vấn pháp luật hình sự - Công ty Luật Minh Gia.

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

0971.166.169