Loại trừ trách nhiệm hình sự liên quan đến nhân thân người phạm tội
Ngoài ra, trong một số trường hợp nhà làm luật quy định nếu người phạm tội tuy đã đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự và có năng lực trách nhiệm hình sự nhưng họ chưa bị xử lý bằng các biện pháp pháp lý cần thiết hoặc tuy đã bị xử lý nhưng đã được pháp luật coi như chưa bị xử lý thì họ cũng không phải chịu trách nhiệm hình sự.
Loại trừ trách nhiệm hình sự liên quan đến nhân thân người phạm tội
1. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự
Luật hình sự nước nào cũng quy định tuổi chịu trách nhiệm hình sự, nhưng không phải nước nào cũng giống nhau, điều đó hoàn toàn tuỳ thuộc vào thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm của mỗi nước, vào sự phát triển về sinh học của con người ở mỗi quốc gia khác nhau: ở anh từ 8 tuổi, ở mỹ từ 7 tuổi, ở thụy điển từ 15 tuổi, ở nga từ 14 tuổi, ở pháp từ 13 tuổi, ở các nước đạo hồi như ai -cập, li-băng, i -rắc từ 7 tuổi. v.v…4
Ở nước ta, căn cứ vào thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm, có tham khảo luật hình sự của các nước khác trên thế giới và trong khu vực, bộ luật hình sự đã quy định:
Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm. người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng (điều 12 bộ luật hình sự).
Vấn đề đặt ra về lý luận cần phải giải quyết, đó là vì sao người chưa đủ 14 tuổi lại không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi nguy hiểm cho xã hội mà họ gây ra ? khoa học luật hình sự xác định tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự chủ yếu dựa vào tiêu chuẩn về sự phát triển tâm sinh lý của con người mà chủ yếu là sự phát triển về quá trình nhận thức của con người và yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm.
Người chưa đủ 14 tuổi, trí tuệ chưa phát triển đầy đủ nên chưa nhận thức được tính nguy hiểm cho xã hội về hành vi của mình, chưa đủ khả nặng tự chủ khi hành động nên họ không bị coi là có lỗi về hành vi nguy hiểm cho xã hội mà họ thực hiện. một hành vi được coi là không có lỗi cũng tức là không đủ yếu tố cấu thành tội phạm nên họ không phải chịu trách nhiệm hình sự (loại trừ trách nhiệm hình sự).
Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi được coi là người chưa có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ. do đó họ cũng chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về một số tội phạm theo quy định của pháp luật chứ không chịu trách nhiệm hình sự về tất cả các tội phạm. theo luật hình sự nước ta thì người từ đủ 14 tuổi trở nên nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về những tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng nghiêm trọng do cố ý (khoản 2 Điều 12 Bộ luật hình sự).
Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù; tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình. (khoản 3 điều 8 bộ luật hình sự) . ví dụ: tội cướp tài sản thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 và 2 điều 133 bộ luật hình sự là tội phạm rất nghiêm trọng, còn thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 và 4 là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. việc phân biệt tội phạm rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng với tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, nói chung không mấy khó khăn vì chỉ cần căn cứ vào mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy, nhưng cũng còn không ít người nhận thức không đúng nên cho rằng phải căn cứ vào mức hình phạt cao nhất mà điều luật quy định đối với tội ấy như tội trộm cắp tài sản luôn luôn là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng vì mức hình phạt cao nhất mà điều luật quy định đối với tội này là tù chung thân, nhưng theo quy định tại khoản 3 điều 8 bộ luật hình sự thì tội trộm cắp tài chỉ có khoản 4 điều 138 bộ luật hình sự mới là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, còn khoản 1 của điều luật này là tội ít nghiêm trọng vì mức cao nhất của khung hình phạt là ba năm tù, khoản 2 của điều luật la tội nghiêm trọng và khoản 3 của điều luật là tội phạm rất nghiêm trọng. như vậy, một người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi nếu phạm tội trộm cắp tài sản thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 điều 138 bộ luật hình sự thì không phải chịu trách nhiệm hình sự vì khoản 1 và khoản 2 điều 138 bộ luật hình sự không phải là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
Nếu người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi lại phạm tội do vô ý thì họ chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. ví dụ: Trần văn k 15 tuổi 10 tháng là học sinh lớp 9 trường phổ thông cơ sở quang trung, thành phố b. trên đường đi học về, k vô ý ném tàn thuốc lá vào đống rơm của gia đình bà h, vì trời hanh khô nên bắt lửa làm cháy đống rơm và toàn bộ ngôi nhà của gia đình bà h thiệt hại trị giá hàng 100 triệu đồng. bà h yêu cầu cơ quan điều tra phải khởi tố vụ án hình sự đối với hành vi phạm tội của k. nhưng sau khi xem xét thì thấy k chưa đủ 16 tuổi và tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản quy định tại điều 145 bộ luật hình sự cả khoản 1 và khoản 2 của điều luật đều là tội phạm ít nghiêm trọng, nên cơ quan điều tra đã không khởi tố vụ án mà chuyển hồ sơ sang toà án giải quyết bằng vụ kiện dân sự. người từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ 16 tuổi là người có năng lực trách nhiệm hình sự nhưng năng lực đó bị hạn chế và họ cũng chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự hạn chế, hay nói cách khác họ được loại trừ trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng do vô ý.
Một người chưa đủ 18 tuổi khi thực hiện một hành vi nguy hiểm cho xã hội, theo quy định của bộ luật tố tụng hình sự thì khi điều tra, truy tố và xét xử, các cơ quan tiến hành tố tụng (cơ quan điều tra, viện kiểm sát và toà án) phải xác định rõ tuổi của họ. cách tính đủ tuổi là tính theo tuổi tròn. ví dụ: sinh ngày 1-1-1980 thì ngày 1-1-1994 mới đủ 14 tuổi và ngày 1-1-1996 mới đủ 16 tuổi. trong trường hợp không có điều kiện xác định chính xác ngày sinh thì tính ngày sinh theo ngày cuối cùng của tháng sinh. ví dụ: chỉ biết tháng sinh của người phạm tội là tháng 4-1981 mà không biết ngày nào thì lấy ngày 30-4-1981 là ngày sinh của họ. trường hợp cũng không có điều kiện xác định chính xác tháng sinh thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng năm sinh là ngày sinh của người phạm tội. ví dụ: chỉ biết năm sinh của người phạm tội là năm 1983 thì ngày sinh của người phạm tội là ngày 31-12-1983. các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử phải tiến hành hết các biện pháp xác minh mà không thể chứng minh được ngày tháng năm sinh thì mới lấy ngày cuối cùng trong tháng hoặc tháng cuối cùng trong năm làm ngày sinh của người phạm tội. trong hồ sơ vụ án nhất thiết phải có bản sao giấy khai sinh (nếu là trường hợp có giấy khai sinh) hoặc các biên bản xác minh có xác nhận của các cơ quan có thẩm quyền (nếu là trường hợp không có giấy khai sinh).
2. Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự
Năng lực trách nhiệm hình sự là khả năng của một người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhận thức được tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình và điều khiển được hành vi ấy. nếu một người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhưng họ không nhận thức được hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội hoặc nhận thức được nhưng không điều khiển được hành vi đó là người không có năng lực trách nhiệm hình sự.
Theo quy định tại khoản 1 điều 13 bộ luật hình sự, thì tình trạng không có nặng lực trách nhiệm hình sự là người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình.
Như vậy, tiêu chuẩn (dấu hiệu) để xác định một người không có năng lực trách nhiệm hình sự là mắc bệnh (tiêu chuẩn y học) và tâm lý (mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển). cả hai dấu hiệu này có mối liên quan chặt chẽ với nhau, cái này là tiền đề của cái kia và ngược lại. một người vì mắc bệnh nên mất khả năng điều khiển và bị mất khả năng điều khiển vì họ mắc bệnh.
Theo quy định tại khoản 1 điều 13 bộ luật hình sự thì người bị mắc bệnh là bệnh tâm thần hoặc bệnh khác. cho đến nay chưa có giải thích chính thức nào về trường hợp không có năng lực trách nhiệm hình sự được quy định tại điều 13 bộ luật hình sự. tuy nhiên, về lý luận cũng như thực tiễn xét xử đã thừa nhận một người không có năng lực trách nhiệm hình sự khi họ mắc một trong các bệnh sau: bệnh tâm thần kinh niên, bệnh loạn thần, bệnh si ngốc, các bệnh gây rối loạn tinh thần tạm thời.
Một người bị mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh làm mất khả năng nhận thức phải được hội đồng giám định tâm thần xác định và kết luận. ở nước ta, ngành tâm thần học mới ra đời, nhưng đã đạt được những kết quả nhất định. tuy nhiên, cho đến nay, những kiến thức về tâm thần học trong nhân dân và ngay trong đội ngũ cán bộ y tế còn hạn chế, chưa đáp ứng được sự đòi hỏi về phòng và chữa bệnh tâm thần cũng như việc xác định năng lực trách nhiệm hình sự đối với người mắc bệnh tâm thần thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. có nhiều trường hợp, có những kết luận trái ngược nhau về tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự giữa các hội đồng giám định tâm thần làm cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội không chính xác. thậm chí có trường hợp kết luận của hội đồng giám định không được các cơ quan tiến hành tố tụng chấp nhận vì kết luận đó thiếu cơ sở khoa học, không phù hợp với trạng thái tầm thần của người phạm tội. để đáp ứng yêu cầu của việc giám định pháp y nói chung và giám định tâm thần nói riêng, vừa qua thủ tưởng chính phủ đã quyết định thành lập viện giám định pháp y trung ương trực thuộc bộ y tế.
Thực tiễn xét xử cho thấy có trường hợp một người bị mắc bệnh tâm thần nhưng họ vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự bởi vì khi thực hiện hành vi phạm tội họ không mắc bệnh. pháp luật nước ta cũng như một số nước trên thế giới đều quy định: chỉ người nào thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong tình trạng họ đang bị bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức thì mới không bị truy cứu trách nhiệm hình sự (loại trừ trách nhiệm hình sự).
Chỉ khi nào người mắc bệnh tâm thần tới mức làm mất khả năng nhận thức hành vi của mình và hậu quả do hành vi đó gây ra mới được coi là không có năng lực trách nhiệm hình sự. nếu bệnh của họ chưa tới mức làm mất khả năng nhận thức tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình thì tuỳ thuộc vào từng trường hợp cụ thể, họ phải chịu toàn bộ hoặc một phần trách nhiệm hình sự .
Luật hình sự nước ta cũng như nhiều nước trên thế giới không loại trừ trách nhiệm hình sự cho người phạm tội do say rượu hoặc do dùng chất kích thích mạnh khác. bởi vì trước đó họ là người có năng lực trách nhiệm hình sự và khi họ uống rượu hoặc sử dụng chất kích thích là tự họ đặt mình vào tình trạng “ say” nên họ có lỗi. say rượu là một hiện tượng không bình thường trong xã hội, là một thói xấu trong sinh hoạt, việc bắt người say rượu phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội do họ gây ra còn là biểu thị thái độ nghiêm khắc của xã hội đối với tệ nạn say rượu. tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng nếu người phạm tội không có lỗi trong việc uống rượu và như vậy họ cũng không có lỗi trong việc say rượu sẽ được thừa nhận là không có năng lực trách nhiệm hình sự. ngoài trường hợp say rượu bình thường, về y học còn có trường hợp say rượu bệnh lý. thực tiễn xét xử cũng đã xảy ra trường hợp hội đồng giám định pháp y tâm thần kết luận người phạm tội do say rượu bệnh lý, nhưng họ vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự. đó là trường hợp phạm đình tứ ở nghệ tĩnh (cũ) sau khi uống rượu cùng với thầy giáo cũ tại nhà thầy, trong đêm hôm đó tứ đã thức dậy dùng dao chém nhiều nhát vào vợ, con và thầy giáo, nhưng chỉ có vợ con thầy giáo chết còn thầy giáo của tứ thì thoát nạn. do có hai bản giám định trái ngược nhau về tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự nên bộ y tế thành lập hội đồng giám định pháp y tầm thần và két luận phạm đình tứ phạm tội do say rượu bệnh lý. căn cứ vào hành vi phạm tội của phạm đình tứ, có xem xét đến kết quả giám định của hội đồng giám định pháp y tâm thần do bộ y tế thành lập nên toà án đã phạt tù chung thân đối với phạm đình tứ về tội giết người. như vậy, về lý luận cũng như thực tiễn xét xử, ở nước ta không thừa nhận tình trạng say rượu dù đó là say rượu bệnh lý cũng không được loại trừ trách nhiệm hình sự. ở một số nước, trong đó có các nước cộng hoà thuộc liên xô” cũ coi trường hợp say rượu bệnh lý được loại trừ trách nhiệm hình sự.5
Một người mắc bệnh tâm thần trong khi thực hiện hành vi phạm tội họ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nhưng họ phải bị áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh. đối với người lúc thực hiện hành vi phạm tội họ không mắc bệnh tâm thần nhưng sau khi phạm tội và trước khi toà kết án mà họ lại mắc bệnh tâm thần tới mức không nhận thức được hành vi của mình thì họ cũng được áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh, nhưng sau khi khỏi bệnh, người đó có thể phải chịu trách nhiệm hình sự.
Người phạm tội cũng được loại trừ trách nhiệm hình sự nếu khi thực hiện hành vi phạm tội họ mắc một bệnh nào đó và bệnh đó đã làm mất khả năng điều khiển hành vi của mình. đây là trường hợp người phạm tội vẫn nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội nhưng vị bị bệnh nên họ không điều khiển được hành vi của mình theo ý muốn nên đã gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội. thông thường những người ở trong tình trạng này là trường hợp theo quy định của pháp luật buộc họ phải hành động, nhưng vì bị bệnh nên họ không thể hành động theo ý muốn nên đã gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội. ví dụ: một nhân viên đường sắt có nhiệm vụ bẻ ghi cho tàu hoả đi vào đúng đường ray, nhưng vì người này bị lên cơn sốt ác tính nên không thể thực hiện được nhiệm vụ được giao làm cho tàu hoả đâm vào đoàn tầu đang đỗ trong ga gây thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng đến người và tài sản.
Một người mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thực hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình phải được hội đồng giám định pháp y kết luận, nhưng nguyên nhân làm cho người bị mắc bệnh lại rất đa dạng. ở nước ta do hậu quả của nhiều cuộc chiến tranh để lại cho nên những người mắc bệnh tâm thần còn do hậu quả của chiến tranh như: bị thương, bị nhiễm chất độc màu da cam, bị sốt rét ác tính hoặc các bệnh khác làm mất khả năng nhận thực hoặc khả năng điều khiển hành vi. tuy nhiên, thực tiễn xét xử các cơ quan tiến hành tố tụng ít quan tâm đến đặc điểm này, nên khi sự việc xảy ra các cơ quan tiến hành tố tụng không tiến hành trưng cầu giám định tầm thần đối với người có hành vi phạm tội. ví dụ: ông vũ quốc d là bộ đội đặc công bị thương ở đầu, mảnh đạn còn nằm trong hộp sọ có tỷ lệ thương tật là 85%. khi còn ở trại diều dưỡng, thỉnh thoảng trái gió, trở trời ông d bị lên cơn rối loạn tinh thần không nhận thức được hành vi của mình. sau khi được gia đình nhận về chăm sóc, thỉnh thoảng ông d bị lên cơn rối loạn tinh thần, đánh những người thân trong gia đình. do vợ chồng ông d sinh con thứ ba, nên ubnd xã đã phạt ông 50 kg thóc và không làm giấy khai sinh cho con thứ ba của ông d. ông d đã nộp phạt 50 kg thóc, nhưng nhiều lần ông đến ubnd đề nghị khai sinh cho con thứ ba của ông nhưng ubnd vẫn từ chối. khi con ông d đến tuổi đi học, nhà trường yêu cầu phải có giấy khai sinh mới được nhập học; ông d đến ubnd xã năn nỉ xin giấy khai sinh cho con, nhưng ông đào văn t cán bộ uỷ ban chẳng những không cấp mà còn có lời lẽ lăng mạ, xúc phạm ông d, làm cho ông d bức xúc lên cơn thần kinh đã dùng chiếc ghế gỗ có sẵn ở văn phòng uỷ ban đập vào đầu, vào người ông t làm cho ông t bị thương có tỷ lệ thương tật là 18%. với hành vi này, ông vũ quốc d bị truy tố về tội cố ý gây thương tích theo khoản 2 điều 104 bộ luật hình sự, vì tỷ lệ thương tật của người bị hạnh là 18% và thuộc trường hợp gây thương tích cho người thi hành công vụ. trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử, các cơ quan tiến hành tố tụng không có nghi ngờ gì về trạng thái tâm thần của ông d nên toà án cấp sơ thẩm và phúc thẩm đã kết án ông d 30 tháng tù nhưng cho hưởng án treo với thời gian thử thách là 3 năm. sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, hội cựu chiến binh, sở lao động-thương binh và xã hội đề nghị xem xét lại bản án đối với ông d, vì cho rằng, ông d phạm tội trong trạng thái mất năng lực hành vi do bị thương ở đầu. kết quả giám định tâm thần của hội đồng giám định pháp y tâm thần đã kết luận: khi thực hiện hành vi gây thương tích cho ông t, ông vũ quốc d không có năng lực hành vi do bị thương ở đầu.
3. Người có hành vi nguy hiểm chưa bị xử lý kỷ luật, chưa bị xử phạt hành chính, chưa bị bị áp dụng biện pháp cưỡng chế cần thiết, chưa bị kết án hoặc tuy đã bị kết án nhưng đã được xoá án tích.
Tuy không phải là một yếu tố cấu thành năng lực trách nhiệm hình sự, nhưng lại một yếu tố gắn liền với nhân thân người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. nói chung, một người đến một độ tuổi nhất định theo quy định của pháp luật và trong khi thực hiện hành vi không mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình thì phải chịu trách nhiệm hình sự. tuy nhiên, có những hành vi nhà làm luật quy định người thực hiện hành vi nếu chưa bị xử lý kỷ luật, chưa bị xử phạt hành chính, chưa bị kết án hoặc tuy đã bị kết án nhưng đã được xoá án tích thì không coi là hành vi phạm tội, mặc dù hành vi của họ đã gây ra thiệt hại cho xã hội.
Hành vi đã gây ra thiệt hại cho xã hội nhưng chưa bị xử lý kỷ luật, chưa bị xử phạt hành chính, chưa bị kết án hoặc tuy đã bị kết án nhưng đã được xoá án tích không bị coi là tội phạm chủ yếu là hành vi gây ra thiệt hại không lớn, nếu đã gây ra thiệt hại hại lớn hoặc rất lớn thì vẫn bị coi là hành vi phạm tội và người có hành vi phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Tuy nhiên, cũng có trường hợp nhà làm luật không quy định thiệt hại mà quy định ngay hành vi đó chưa bị xử lý kỷ luật, chưa bị xử phạt hành chính, chưa bị kết án hoặc tuy đã bị kết án nhưng đã được xoá án tích không bị coi là tội phạm.
Việc xác định những hành vi nào đã gây ra thiệt hại cho xã hội nhưng chưa bị xử lý kỷ luật, chưa bị xử phạt hành chính, chưa bị kết án hoặc tuy đã bị kết án nhưng đã được xoá án tích không bị coi là tội phạm phải căn cứ vào từng trường hợp phạm tội cụ thể được quy định ở từng điều luật (phần tội phạm) trong bộ luật hình sự.
Theo quy định của bộ luật hình sự thì các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự do người có hành vi nguy hiểm cho xã hội nhưng chưa bị xử lý kỷ luật, chưa bị xử phạt hành chính, chưa bị kết án hoặc tuy đã bị kết án nhưng đã được xoá án tích bao gồm:
- Người có hành vi chiếm đoạt thư, điện báo, telex, fax hoặc các văn bản khác được truyền đưa bằng phương tiện viễn thông và máy tính hoặc có hành vi trái pháp luật xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác chưa bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt hành chính về hành vi này thì chưa cấu thành tội “xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác” theo điều 125 bộ luật hình sự.
- Người có hành vi cản trở công dân thực hiện quyền hội họp, quyền lập hội phù hợp với lợi ích của nhà nước và của nhân dân, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào nhưng chưa bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt hành chính về hành vi này thì chưa cấu thành tội “xâm phạm quyền hội họp, lập hội, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân” theo điều 129 bộ luật hình sự
- Người có hành vi công nhiên chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị hai triệu đồng nhưng chưa gây hậu quả nghiêm trọng và chưa bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc chưa bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản nhưng đã được xoá án tích thì chưa cấu thành tội “công nhiên chiếm đoạt tài sản” theo điều 137 bộ luật hình sự
- Người có hành vi trộm cắp tài sản của người khác có giá trị hai triệu đồng nhưng chưa gây hậu quả nghiêm trọng và chưa bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc chưa bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản nhưng đã được xoá án tích thì chưa cấu thành tội “trộm cắp tài sản” theo điều 138 bộ luật hình sự.
- Người có thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị hai triệu đồng nhưng chưa gây hậu quả nghiêm trọng và chưa bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc chưa bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản nhưng đã được xoá án tích thì chưa cấu thành tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điều 139 bộ luật hình sự.
- Người có một trong những hành vi: vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản có giá trị dưới bốn triệu đồng nhưng chưa gây hậu quả nghiêm trọng và chưa bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc chưa bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản nhưng đã được xoá án tích thì chưa cấu thành tội “lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo điều 140 bộ luật hình sự.
- Người vì vụ lợi mà có hành vi sử dụng trái phép tài sản của người khác có giá trị từ năm mươi triệu đồng trở lên nhưng chưa gây hậu quả nghiêm trọng và chưa bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc chưa bị kết án về tội này, hoặc đã bị kết án về tội này nhưng đã được xoá án tích thì chưa cấu thành tội “sử dụng trái phép tài sản” theo điều 142 bộ luật hình sự.
- Người có hành vi hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác gây thiệt hại hai triệu đồng nhưng chưa gây hậu quả nghiêm trọng và chưa bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc chưa bị kết án về tội này, hoặc đã bị kết án về tội này nhưng đã được xoá án tích thì chưa cấu thành tội “hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản” theo điều 143 bộ luật hình sự.
- Người có hành vi cưỡng ép người khác kết hôn trái với sự tự nguyện của họ, cản trở người khác kết hôn hoặc duy trì quan hệ hôn nhân tự nguyện, tiến bộ bằng cách hành hạ, ngược đãi, uy hiếp tinh thần, yêu sách của cải hoặc bằng thủ đoạn khác nhưng chưa bị xử phạt hành chính về hành vi này thì chưa cấu thành tội “cưỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ” theo điều 146 bộ luật hình sự.
- Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ nhưng chưa gây hậu quả nghiêm trọng và cũng chưa bị xử phạt hành chính về hành vi này thì chưa cấu thành tội “vi phạm chế độ một vợ, một chồng” theo điều 147 bộ luật hình sự.
- Người có một trong các hành vi: tổ chức việc kết hôn cho những người chưa đến tuổi kết hôn; cố ý duy trì quan hệ vợ chồng trái pháp luật với người chưa đến tuổi kết hôn mặc dù đã có quyết định của toà án buộc chấm dứt quan hệ đó nhưng chưa bị xử phạt hành chính về hành vi này thì chưa cấu thành tội “tổ chức tảo hôn” hoặc tội “tảo hôn” theo điều 148 bộ luật hình sự.
- Người có trách nhiệm trong việc đăng ký kết hôn biết rõ là người xin đăng ký không đủ điều kiện kết hôn mà vẫn đăng ký cho người đó, nhưng chưa bị xử lý kỷ luật về hành vi này thì chưa cấu thành tội “đăng ký kết hôn trái pháp luật” theo điều 149 bộ luật hình sự.
- Người có hành vi ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu hoặc người có công nuôi dưỡng mình nhưng chưa gây hậu quả nghiêm trọng và cũng chưa bị xử phạt hành chính về hành vi này thì chưa cấu thành tội “ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình” theo điều 151 bộ luật hình sự.
- Người có nghĩa vụ cấp dưỡng và có khả năng thực tế để thực hiện việc cấp dưỡng đối với người mà mình có nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của pháp luật mà cố ý từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng nhưng chưa gây hậu quả nghiêm trọng và cũng chưa bị xử phạt hành chính về hành vi này thì chưa cấu thành tội “từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng” theo điều 152 bộ luật hình sự.
- Người có hành vi buôn bán trái phép qua biên giới hàng hoá, tiền việt nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý có giá trị dưới một trăm triệu đồng; hàng cấm với số lượng chưa lớn nhưng chưa bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc các hành vi quy định tại một trong các điều 154, 155, 156, 157, 158, 159, 160 và 161 bộ luật hình sự hoặc chưa bị kết án về một trong các tội này, hoặc đã bị kết án nhưng đã được xoá án tích thì chưa cấu thành tội “buôn lậu”theo điều 153 bộ luật hình sự.
- Người có hành vi vận chuyển trái phép qua biên giới hàng hoá, tiền việt nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý có giá trị dưới một trăm triệu đồng; hàng cấm với số lượng chưa lớn nhưng chưa bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc các hành vi quy định tại một trong các điều 153, 155, 156, 157, 158, 159, 160 và 161 bộ luật hình sự hoặc chưa bị kết án về một trong các tội này, hoặc đã bị kết án nhưng đã được xoá án tích và hành vi vận chuyển trái phép qua biên giới vật phẩm thuộc di tích lịch sử, văn hoá chưa bị xử phạt hành chính thì chưa cấu thành tội “vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới” theo điều 154 bộ luật hình sự.
- Người có hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng hoá mà nhà nước cấm kinh doanh có số lượng chưa lớn, thu lợi bất chính chưa lớn và chưa bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc các hành vi quy định tại các điều 153, 154, 156, 157, 158, 159 và 161 của bộ luật hình sự hoặc chưa bị kết án về một trong các tội này, hoặc tuy đã bị kết án nhưng đã được xoá án tích thì chưa cấu thành tội “sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm” theo điều 155 bộ luật hình sự.
- Người có hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả tương đương với số lượng của hàng thật có giá trị dưới ba mươi triệu đồng nhưng chưa gây hậu quả nghiêm trọng hoặc chưa bị xử phạt hành chính về hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả hoặc các hành vi quy định tại một trong các điều 153, 154, 155, 157, 158, 159 và 161 của bộ luật hình sự hoặc chưa bị kết án về một trong các tội này, hoặc tuy đã bị kết án nhưng đã được xoá án tích thì chưa cấu thành tội “sản xuất, buôn bán hàng giả” theo điều 156 bộ luật hình sự.
- Người có hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi với số lượng chưa lớn hoặc chưa gây hậu quả nghiêm trọng và chưa bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc các hành vi quy định tại một trong các điều 153, 154, 155, 156, 157, 159 và 161 bộ luật hình sự hoặc chưa bị kết án về một trong các tội này, hoặc đã bị kết án nhưng đã được xoá án tích thì chưa cấu thành tội “sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi” theo điều 158 bộ luật hình sự.
- Người kinh doanh không có đăng ký kinh doanh, kinh doanh không đúng với nội dung đã đăng ký hoặc kinh doanh không có giấy phép riêng trong trường hợp pháp luật quy định phải có giấy phép nhưng chưa bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc chưa bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 153, 154, 155, 156, 157, 158, 160, 161, 164, 193, 194, 195, 196, 230, 232, 233, 236 và 238 của bộ luật hình sự, hoặc tuy đã bị kết án nhưng đã được xoá án tích thì chưa cấu thành tội “kinh doanh trái phép” theo điều 159 bộ luật hình sự.
- Người có hành vi trốn thuế với số tiền dưới 100 triệu đồng và chưa bị xử phạt hành chính về hành vi trốn thuế hoặc chưa bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 153, 154, 155, 156, 157, 158, 159, 160, 164, 193, 194, 195, 196, 230, 232,233, 236 và 238 của bộ luật này, hoặc tuy đã bị kết án nhưng đã được xoá án tích thì chưa cấu thành tội “trốn thuế” theo điều 161 bộ luật hình sự.
- Người có hành vi cân, đong, đo, đếm, tính gian, đánh tráo loại hàng hoặc dùng thủ đoạn gian dối khác trong việc mua, bán nhưng chưa gây thiệt hại nghiêm trọng cho khách hàng hoặc chưa bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc chưa bị kết án về tội này, hoặc tuy đã bị kết án nhưng đã được xoá án tích thì chưa cấu thành tội “lừa dối khách hàng” theo điều 162 bộ luật hình sự.
- Người có hành vi làm, buôn bán các loại tem giả, vé giả với số lượng chưa lớn và chưa bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc chưa bị kết án về tội này, hoặc tuy đã bị kết án nhưng đã được xoá án tích thì chưa cấu thành tội “làm tem giả, vé giả” hoặc tội “buôn bán tem giả, vé giả” theo điều 164 bộ luật hình sự.
- Người có hành vi in, phát hành, mua bán trái phép hoá đơn; chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước với số lượng chưa lớn và chưa bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc chưa bị kết án về tội này, hoặc tuy đã bị kết án nhưng đã được xoá án tích thì chưa cấu thành tội “in, phát hành, mua bán trái phép hoá đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước” theo điều 164a bộ luật hình sự.
- Người có hành vi vi phạm quy định về bảo quản, quản lý hoá đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước chưa gây hậu quả nghiêm trọng và chưa bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc chưa bị kết án về tội này, hoặc tuy đã bị kết án nhưng đã được xoá án tích thì chưa cấu thành tội “vi phạm quy định về bảo quản, quản lý hoá đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước” theo điều 164b bộ luật hình sự.
- Người có hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây thiệt hại dưới một trăm triệu đồng, nhưng chưa bị xử lý kỷ luật về hành vi này thì chưa cấu thành tội “cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” theo điều 165 bộ luật hình sự.
- Người có hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn lập quỹ trái phép có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng và đã sử dụng quỹ đó nhưng chưa gây hậu quả nghiêm trọng và cũng chưa bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt hành chính về hành vi này thì chưa cấu thành tội “lập quỹ trái phép” theo điều 166 bộ luật hình sự.
- Người vì vụ lợi hoặc vì động cơ cá nhân khác mà có hành vi báo cáo với cơ quan có thẩm quyền những số liệu, tài liệu rõ ràng không đúng sự thật nhưng chưa gây hậu quả nghiêm trọng cho việc xây dựng hay thực hiện kế hoạch kinh tế – xã hội của nhà nước và cũng chưa bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt hành chính về hành vi này hoặc chưa bị kết án về tội này, hoặc tuy đã bị kết án nhưng đã được xoá án tích thì chưa cấu thành tội “báo cáo sai trong quản lý kinh tế” theo điều 167 bộ luật hình sự.
- Người có hành vi quảng cáo gian dối về hàng hoá, dịch vụ chưa gây hậu quả nghiêm trọng và chưa bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc chưa bị kết án về tội này, hoặc tuy đã bị kết án nhưng đã được xoá án tích thì chưa cấu thành tội “quảng cáo gian dối” theo điều 168 bộ luật hình sự.
- Người có thẩm quyền trong việc cấp văn bằng bảo hộ mà có hành vi vi phạm quy định của pháp luật về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, nhưng chưa bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt hành chính về hành vi này thì chưa cấu thành tội “vi phạm quy định về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp” theo điều 170 bộ luật hình sự.
- Người có hành vi lấn chiếm đất hoặc chuyển quyền sử dụng đất, sử dụng đất trái với các quy định của nhà nước về quản lý và sử dụng đất đai chưa gây hậu quả nghiêm trọng và chưa bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc chưa bị kết án về tội này, hoặc tuy đã bị kết án nhưng đã được xoá án tích thì chưa cấu thành tội “vi phạm các quy định về sử dụng đất đai” theo điều 173 bộ luật hình sự.
- Người có hành vi lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn giao đất, thu hồi, cho thuê, cho phép chuyển quyền sử dụng, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trái pháp luật, chưa bị xử lý kỷ luật về hành vi này, đất có diện tích chưa lớn hoặc đất có giá trị chưa lớn, chưa gây hậu quả nghiêm trọng thì chưa cấu thành tội “vi phạm các quy định về quản lý đất đai” theo điều 174 bộ luật hình sự.
- Người có hành vi khai thác trái phép cây rừng hoặc có hành vi khác vi phạm các quy định của nhà nước về khai thác và bảo vệ rừng, hoặc vận chuyển, buôn bán gỗ trái phép chưa gây hậu quả nghiêm trọng và cũng chưa bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc chưa bị kết án về tội này, hoặc tuy đã bị kết án nhưng đã được xoá án tích thì chưa cấu thành tội “vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng” theo điều 175 bộ luật hình sự.
- Người có hành vi lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn có một trong các hành vi: giao rừng, đất trồng rừng, thu hồi rừng, đất trồng rừng; cho phép chuyển mục đích sử dụng rừng, đất trồng rừng hoặc cho phép khai thác, vận chuyển lâm sản trái pháp luật chưa gây hậu quả nghiêm trọng và chưa bị xử lý kỷ luật về hành vi này thì chưa cấu thành tội “vi phạm các quy định về quản lý rừng” theo điều 176 bộ luật hình sự.
- Người có trách nhiệm mà thực hiện một trong các hành vi: cắt điện không có căn cứ hoặc không thông báo theo quy định, từ chối cung cấp điện không có căn cứ hoặc trì hoãn việc xử lý sự cố điện không có lý do chính đáng nhưng chưa gây hậu quả nghiêm trọng và chưa bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính về hành vi này hoặc chưa bị kết án về tội này, hoặc tuy đã bị kết án nhưng đã được xoá án tích thì chưa cấu thành tội “vi phạm các quy định về cung ứng điện” theo Điều 177 Bộ luật hình sự.
- Người có trách nhiệm mà dùng quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ chia lợi tức cổ phần nhưng chưa gây hậu quả nghiêm trọng và cũng chưa bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính về hành vi này hoặc chưa bị kết án về tội này, hoặc tuy đã bị kết án nhưng đã được xoá án tích thì chưa cấu thành tội “sử dụng trái phép quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ của tổ chức tín dụng” theo Điều 178 Bộ luật hình sự.
- Người có hành vi cố ý cụng bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật liên quan đến việc chào bán, niêm yết, giao dịch, hoạt động kinh doanh chứng khoán, tổ chức thị trường, đăng ký, lưu ký, bự trừ hoặc thanh toỏn chứng khoán chưa gây hậu quả nghiêm trọng thì chưa cấu thành tội “cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động chứng khoản”theo Điều 181a Bộ luật hình sự.
- Người có hành vi thao túng chứng khoán chưa gây hậu quả nghiêm trọng thì chưa cấu thành tội “thao túng chứng khoán” quy định tại Điều 181c Bộ luật hình sự.
- Người cú hành vi thải vào không khí, nguồn nước, đất nước chất gây ô nhiễm môi trường, phát t&a
Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất