Không trả sổ bảo hiểm cho người lao động để làm bảo hiểm thất nghiệp?
Trên đây là nội dung tư vấn của Luật Minh Gia về vấn đề bạn yêu cầu tư vấn: Không trả sổ bảo hiểm cho người lao động để làm bảo hiểm thất nghiệp?. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ qua Email hoặc gọi điện đến bộ phận luật sư tư vấn trực tuyến - Số điện thoại liên hệ 1900.6169 để được giải đáp, hỗ trợ kịp thời.
Trả lời: Cảm ơn chị đã gửi câu hỏi đề nghị tư vấn đến công ty Luật Minh Gia. Trường hợp của chị chúng tôi xin tư vấn như sau:
Sau khi chị chấm dứt hợp đồng, hai bên phải có nghĩa vụ thanh toán đầy đủ các khoản liên quan, và người sử dụng lao động phải có trách nhiệm khi chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định của pháp luật.
Tại Điều 47 Bộ luật lao động năm 2012 quy định về trách nhiệm của người lao động khi chấm dứt hợp đồng lao động
“2. Trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày chấm dứt hợp đồng lao động, hai bên có trách nhiệm thanh toán đầy đủ các khoản có liên quan đến quyền lợi của mỗi bên; trường hợp đặc biệt, có thể kéo dài nhưng không được quá 30 ngày.
3. Người sử dụng lao động có trách nhiệm hoàn thành thủ tục xác nhận và trả lại sổ bảo hiểm xã hội và những giấy tờ khác mà người sử dụng lao động đã giữ lại của người lao động.”
Theo quy định của pháp luật, người lao động đang đóng bảo hiểm thất nghiệp được hưởng trợ cấp thất nghiệp khi đáp ứng các điều kiện tại Điều 49 Luật Việc làm năm 2013:
“1. Chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc, trừ các trường hợp:
a) Người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc trái pháp luật;
b) Hưởng lương hưu, trợ cấp mất sức lao động hằng tháng;
2. Đã đóng bảo hiểm thất nghiệp từ đủ 12 tháng trở lên trong thời gian 24 tháng trước khi chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc đối với trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều 43 của Luật này; đã đóng bảo hiểm thất nghiệp từ đủ 12 tháng trở lên trong thời gian 36 tháng trước khi chấm dứt hợp đồng lao động đối với trường hợp quy định tại điểm c khoản 1 Điều 43 của Luật này;
3. Đã nộp hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp tại trung tâm dịch vụ việc làm theo quy định tại khoản 1 Điều 46 của Luật này;
4. Chưa tìm được việc làm sau 15 ngày, kể từ ngày nộp hồ sơ hưởng bảo hiểm thất nghiệp, trừ các trường hợp sau đây:
a) Thực hiện nghĩa vụ quân sự, nghĩa vụ công an;
b) Đi học tập có thời hạn từ đủ 12 tháng trở lên;
c) Chấp hành quyết định áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc;
d) Bị tạm giam; chấp hành hình phạt tù;
đ) Ra nước ngoài định cư; đi lao động ở nước ngoài theo hợp đồng;
e) Chết.”
Trường hợp của chị đã quá thời hạn 3 tháng kể từ ngày chị nghỉ việc ở công ty nên chị sẽ không được nộp hồ sơ hưởng bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của pháp luật.
Theo chị trình bày, chị chưa nhận được sổ bảo hiểm là do lỗi của công ty. Do đó nếu chị có đầy đủ bằng chứng chứng minh phía công ty thiếu trách nhiệm, cố tình chậm trễ việc trả sổ bảo hiểm xã hội, chốt sổ bảo hiểm xã hội cho chị thì chị có thể làm đơn khởi kiện đến Tòa án quận/ huyện nơi công ty đăng ký trụ sở để Tòa án giải quyết ( căn cứ theo điểm d khoản 1 Điều 31; điểm c khoản 1 Điều 33 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004).
Trân trọng!
CV: Hồng Minh – Công ty Luật Minh Gia.
Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất