Không trả giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có khởi kiện được không?
Câu hỏi: Tôi và anh A có mua ông Nguyễn Văn B lô đất thông qua bên thứ 3 là công ty C là công ty môi giới làm chứng. Mọi khoản tiền chúng tôi đóng qua Công ty C, công ty C và ông B sẽ thanh toán với nhau. Trong quá trình mua đất, ông B và Công ty C có xin phép xây dựng cho tôi và anh A để chúng tôi xây nhà. Đến kỳ thanh toán tiền mua đất, chúng tôi đóng 100% và ra công chứng, ông B chuyển sổ Đỏ cho chúng tôi. Nhưng không công chứng được vì đất đã xây nhà. Vì tin tưởng chúng tôi đã giao cho công ty C để làm các thủ tục hoàn công nhà để được công chứng sang tên và tách sửa cho chúng tôi.Qua hơn 2 năm, công ty C không hoàn thành và cũng không trả sổ đỏ cho chúng tôi. Chúng tôi nhiều lần yêu cầu công ty C tra sổ cho chúng tôi để chúng tôi tự đi làm hồ sơ hoàn công nhưng công ty C không trả. Chúng tôi có thể: gửi đơn tố cáo đến công an hay gửi đơn khởi kiện đến toàn án để đòi lại sổ đỏ?Các mẫu đơn như thế nào. Kính nhờ Quý Công ty hỗ trợ
Trả lời: Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi tư vấn đến Công ty Luật Minh Gia, với câu hỏi của bạn chúng tôi xin trả lời như sau:
-Về việc gửi đơn tố cáo đến Công an hay gửi đơn khởi kiện đến Tòa án
Thứ nhất, nếu gửi đơn khởi kiện đến Tòa án.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, nếu bạn khởi kiện đến Tòa án chỉ với yêu cầu chỉ đòi lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì Tòa án nhân dân sẽ không thụ lý vụ án, căn cứ theo:
Khoản 1 Điều 105 Bộ luật dân sự 2015 quy định về tài sản như sau:
“1. Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản.
Đồng thời theo Điều 115 Bộ luật dân sự 2015 về khái niệm Quyền tài sản:
"Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác."
Khoản 16 Điều 3 Luật đất đai 2013:
“Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là chứng thư pháp lý để Nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và quyền sở hữu tài sản khác gắn liền với đất.”
Như vậy, theo các quy định viện dẫn trên, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sổ đỏ), quyền sở hữu nhà và tài sản gắn liền với đất không được coi là tài sản. Quyền sử dụng đất là quyền tài sản theo Điều 105 còn Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không phải là tài sản và không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân (nó chỉ là giấy tờ chứa đựng quyền sử dụng đất). Do đó, mặc dù GCNQSDĐ của bạn và anh A bị Công ty C chiếm giữ, không trả lại cho hai bạn nhưng hai bạn không thể khởi kiện (tại Tòa án) để đòi tài sản.
Nếu hai bạn gửi đơn khởi kiện đến Tòa án để đòi lại GCNQSDĐ từ phía công ty C thì Tòa án sẽ giải quyết theo điểm 3 Công văn số 141/TANDTC-KHXX ngày 21 tháng 9 năm 2011 V/v thẩm quyền giải quyết các yêu cầu trả lại giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản, cụ thể:
“a) Trường hợp chưa thụ lý vụ án thì Tòa án áp dụng điểm e khoản 1 Điều 168 Bộ luật tố tụng dân sự trả lại đơn kiện cho người khởi kiện. Trong văn bản trả lại đơn khởi kiện, Tòa án phải ghi rõ lý do trả lại đơn khởi kiện là yêu cầu khởi kiện không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
b) Trường hợp đã thụ lý vụ án thì Tòa án căn cứ vào khoản 2 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, xóa tên vụ án đó trong sổ thụ lý; trả lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo cho đương sự; căn cứ khoản 3 Điều 193 Bộ luật tố tụng dân sự ra quyết định trả lại tiền tạm ứng án phí cho đương sự.
c) Khi trả lại đơn khởi kiện hoặc đình chỉ giải quyết vụ án dân sự nêu trên, Tòa án phải hướng dẫn cho người khởi kiện có thể yêu cầu cơ quan chức năng giải quyết theo thẩm quyền buộc người chiếm giữ bất hợp pháp giấy tờ nêu trên phải trả lại cho chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp đối với loại giấy tờ đó. Trong trường hợp giấy tờ bị mất thì chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp đối với loại giấy tờ nêu trên có quyền đề nghị cơ quan chức năng có thẩm quyền cấp lại giấy tờ bị mất theo quy định của pháp luật (ví dụ: yêu cầu cấp lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở bị mất theo quy định tại Điều 24Nghị định số 88/2009/NĐ-CP ngày 19/10/2009 của Chính phủ “về cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất”). Bên có lỗi trong việc làm mất giấy tờ phải chịu toàn bộ chi phí, lệ phí trong việc cấp lại giấy tờ mới”
Thứ hai, nếu làm đơn tố cáo đến cơ quan Công an
Hành vi giữ sổ đỏ của anh A và bạn của Công ty C không đủ điều kiện cấu thành tội phạm theo quy định của bộ luật hình sự, chỉ khi Công ty C này mang sổ đỏ của hai bạn đi cầm cố bên ngoài với số tiền lớn, hay thế chấp ngân hàng, sau đó người phải trả nợ sẽ là gia đình nhà bạn….. thì bạn mới có thể tố cáo Công ty này về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại điều 174 bộ luật hình sự 2015 (nếu chứng minh công ty C có hành vi lừa đối bạn để bạn đưa GCNQSDĐ ngay từ ban đầu) hoặc lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản ( do tin tưởng nên hai bạn mới giao cho công ty C nhưng sau đó công ty C không trả lại do đã bỏ trốn, không trả lại được…) theo quy định tại điều 175 bộ luật hình sự 2015.
Tuy nhiên như bạn nói ở đây công ty này qua hơn 2 năm không hoàn thành các thủ tục hoàn công và cũng không trả sổ đỏ cho hai bạn, khả năng Công ty này có hành vi chiếm đoạt tài sản là rất cao, nên tốt nhất với tình huống này, chúng tôi khuyên bạn và anh A nên làm đơn tố cáo đến cơ quan Công an về hành vi chiếm đoạt tài sản nếu có các chứng cứ chứng minh (lưu ý là tài sản chiếm đoạt ở đây là số tiền lấy được từ việc cầm cố hoặc thế chấp quyền sử dụng đất chứ không phải là GCNQSDĐ).
Về mẫu đơn tố cáo, bạn có thể tham khảo tại đường link sau: https://luatminhgia.com.vn/mau-don-to-cao-gui-cong-an.aspx.
Trong trường hợp bạn không thể khởi kiện đến Tòa án và cũng không thể làm đơn tố cáo đến cơ quan Công an do chưa đủ dấu hiệu cấu thành tội phạm thì trước hết bạn nên yêu cầu Công ty C trả lại tài sản, nếu Công ty này vẫn không trả thì bạn có thể yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng khác do bị mất theo quy định tại Điều 77 của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/4/2014 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai năm 2013, điều luật này quy định cụ thể như sau:
“1. Hộ gia đình và cá nhân, cộng đồng dân cư phải khai báo với UBND cấp xã nơi có đất về việc bị mất GCN, UBND cấp xã có trách nhiệm niêm yết thông báo mất GCN tại trụ sở UBND cấp xã, trừ trường hợp mất giấy do thiên tai, hỏa hoạn.
2. Sau 30 ngày, kể từ ngày niêm yết thông báo mất GCN tại trụ sở UBND cấp xã đối với trường hợp của hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư hoặc kể từ ngày đăng tin lần đầu trên phương tiện thông tin đại chúng ở địa phương đối với trường hợp của tổ chức trong nước, cơ sở tôn giáo, tổ chức nước ngoài, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người bị mất GCN nộp 01 bộ hồ sơ đề nghị cấp lại GCN.
3. Văn phòng ĐKĐĐ có trách nhiệm kiểm tra hồ sơ; trích lục bản đồ địa chính hoặc trích đo địa chính thửa đất đối với trường hợp chưa có bản đồ địa chính và chưa trích đo địa chính thửa đất; lập hồ sơ trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại Điều 37 của Nghị định này ký quyết định hủy GCN bị mất, đồng thời ký cấp lại GCN quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất; …”.
Trên đây là nội dung tư vấn của Luật Minh Gia về vấn đề bạn yêu cầu tư vấn: Không trả giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có khởi kiện được không?. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ qua Email hoặc gọi điện đến bộ phận luật sư tư vấn trực tuyến - Số điện thoại liên hệ 1900.6169 để được giải đáp, hỗ trợ kịp thời.
Trân trọng!
CV.Khuất Thị Hạnh – Công ty Luật Minh Gia.
Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất