Đinh Thị Minh Nguyệt

Khách hàng nợ tiền nhà nghỉ và bỏ trốn xử lý ra sao?

Hiện nay, việc kinh doanh dịch vụ lưu trú diễn ra rất phổ biến. Tuy nhiên vấn đề khách hàng nợ tiền thanh toán rồi bỏ trốn đã gây ra nhiều thiệt hại về tài sản cho phía đơn vị kinh doanh. Hành vi này có thể bị xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự tuỳ mức độ, tính chất vi phạm. Vậy nhân viên vi phạm nội quy lao động về thanh toán dịch vụ bị xử lý ra sao? Hãy cùng Luật Minh Gia tìm hiểu.

Nội dung đề nghị tư vấn 1: Luật sư cho em xin hỏi ạ. 1 nhân viên lễ tân làm trong 1 nhà nghỉ , anh nhân viên ấy đã cho khách nợ lại số tiền 11 triệu đồng và ông khách hẹn đến 3 hôm sau quay lại trả tiền cho nhà nghỉ. Nhưng anh khách lại trốn không trả tiền cho nhà nghỉ. Anh nhân viên biết khách đã trốn không đến trả, anh sợ mình phải bị đền số tiền đó nên anh đã tự bỏ việc về quê. Anh chủ nhà nghỉ đó sau khi biết anh nhân viên đã bỏ việc mà không báo, anh chủ đấy đã lập đơn kiện anh nhân viên đã lấy số tiền khách trả rồi bỏ trốn. Luật sư cho em hỏi anh chủ nhà nghỉ kia lập đơn kiện như vậy có đúng không? Em xin cảm ơn.

Trả lời: Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi đề nghị tư vấn đến cho Công ty Luật Minh Gia, trường hợp của bạn chúng tôi xin được tư vấn như sau:

Thứ nhất, về việc khách hàng nợ tiền không trả

Theo thông tin anh cung cấp, một khách hàng thuê phòng và nhân viên đã cho khách hàng nợ lại 11 triệu đồng, khách hẹn 03 ngày trả nhưng khách đã bỏ trốn. Anh nhân viên sợ bị đền bù số tiền nên đã tự ý bỏ về quê.

Theo quy định tại Điều 174 BLHS 2015, sửa đổi bổ sung 2017 quy định về Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như sau:

“Điều 174. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;

b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ; tài sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

a) Có tổ chức;

…”

Căn cứ vào quy định trên, người  nào có hành vi gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác thuộc một trong các trường hợp nêu trên, tuỳ mức độ, tính chất hành vi phạm tội có thể bị truy cứu trách nhiệm Hình sự về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Đối chiếu với trường hợp anh cung cấp, hành vi khách hàng nợ nhân viên 11 triệu và bỏ trốn có dấu hiệu vi phạm hình sự. Anh nhân viên có thể cung cấp các thông tin cũng như những bằng chứng về việc mượn tiền nhằm chiếm đoạt số tài sản đó cho Cơ quan công an và làm đơn tố giác đến các cơ quan điều tra nơi cư trú (thường trú hoặc tạm trú) cấp quận, huyện, thị xã, viện kiểm sát các cấp về hành vi lừa đảo trên.

Ngoài ra, hành vi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản có thể bị xử phạt hành chính từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng theo quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 15 Nghị định số 144/2021/NĐ-CP.

Thứ hai, về hành vi lập đơn khởi kiện của chủ nhà nghỉ

Theo thông tin bạn cung cấp, do nhân viên nghỉ việc không báo nên chủ nhà nghỉ đã lập đơn kiện nhân viên lấy số tiền khách trả rồi bỏ trốn.

Việc nhân viên tự ý nghỉ việc không báo trước không thể xác định ngay được nhân viên đã thực hiện  hành vi lấy tiền nêu trên. Hành vi nhân viên cho khách hàng nợ tiền nhà nghỉ có thể được xác định là vi phạm nội quy lao động về việc thanh toán dịch vụ, vi phạm quan hệ lao động chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự.

Ngoài ra, để tiến hành làm đơn khởi kiện thì chủ nhà cần thu thập các bằng chứng chứng minh hành vi vi phạm của nhân viên. Trong quá trình điều tra, nếu có căn cứ xác định tội phạm đã khởi tố không đúng với hành vi phạm tội xảy ra thì Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện kiểm sát sẽ ra quyết định thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự theo quy định tại Khoản 1 Điều 156 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015. Như vậy, việc khởi kiện không được thực hiện.

Trường hợp này, chủ nhà cần liên hệ, trao đổi với nhân viên để làm rõ thông tin và tiến hành tố cáo đúng đối tượng có hành vi “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Trân trọng !

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

0971.166.169