Phạm Diệu

Tư vấn trường hợp xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

Hỏi: Xin chào văn phòng luật sư, gia đình tôi có mua một thửa đất của ông A năm 2007 (ông A là chính chủ đứng tên của thửa đất nhưng chưa có sổ đỏ). Giao dịch mua bán giữa gia đình tôi và ông A được thực hiện bằng giấy viết tay và vi bằng. Cho đến nay (năm 2016), ông A vẫn chưa được xã cấp sổ đỏ, trong khi ông A đã nộp cho xã tiền mua đất từ năm 2005 và sau đó xã đã nộp cho chi cục thuế.

Hiện nay, gia đình tôi đang tìm cách làm sổ đỏ chính chủ cho mảnh đất này. Tuy nhiên, chúng tôi gặp phải những khó khăn như sau:

- Phiếu thu tiền mua đất của xã năm 2005 do ông A giữ bị thất lạc. Phiếu thu tiền mua đất của xã năm 2005 do xã giữ thì không rõ tung tích (có thể là thất lạc hoặc xã cố tình giấu)

- Xã đã hỗ trợ ông A bằng cách xác nhận lại số tiền ông A đã nộp cho xã năm 2005 dùng để thay phiếu thu đã thất lạc.

- Xã đã công văn lên chi cục thuế để xác nhận số tiền ông A đã nộp vào kho bạc bằng các chứng từ sau:

+) Giấy chứng nhận nộp tiền của ông A vào xã năm 2005 (được xác nhận lại năm 2016 do phiếu thu gốc bị thất lạc) và có xác nhận 2 bên: ông A và xã

+) Phiếu thu của chi cục thuế với số tiền xã nộp vào chi cục thuế  năm 2005 và có xác nhận hai bên: ông B (nhân viên của xã) và chi cục thuế.

Ông B đã qua đời. Chi cục thuế từ chối xác nhận số tiền của ông A nộp với lý do không có tên ông A trong chứng từ phiếu thu của chi cục thuế (ông A chỉ có tên trong giấy chứng nhận nộp tiền của ông A cho xã) và do ông B đã qua đời nên không có người làm chứng. (Như vậy có thể hiểu nôm na là chi cục thuế không tin vào các chứng từ do xã đưa ra và Điều này có hợp lý hay không?) Vì những lý do này mà  ông A không có được xác nhận đã nộp tiền mua đất của mình của chi cục thuế, dẫn tới việc ông A không hoàn thành được thủ tục cấp sổ đỏ. Như vậy, gia đình tôi cũng không thể có sổ đỏ chính chủ cho mảnh đất trên. Xin nhận được sự tư vấn từ văn phòng luật sư về trường hợp của gia đình tôi. Xin chân thành cám ơn.

 

Trả lời: Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi đề nghị tư vấn đến Công ty Luật Minh Gia, trường hợp của bạn chúng tôi tư vấn như sau:

 

Điều 8 Thông tư 76/2014/TT-BTC hướng dẫn giấy tờ chứng minh việc đã nộp tiền để được sử dụng đất cho cơ quan, tổ chức như sau:

 

“Giấy tờ chứng minh về việc đã nộp tiền cho cơ quan, tổ chức để được sử dụng đất khi xác định tiền sử dụng đất quy định tại Điểm a, Điểm b Khoản 1 Điều 8 Nghị định số 45/2014/NĐ-CP bao gồm:

 

1. Biên lai, phiếu thu, hóa đơn thu tiền để được sử dụng đất, thu tiền đền bù theo Quyết định số 186/HĐBT ngày 31 tháng 5 năm 1990 của Hội đồng Bộ trưởng về đền bù thiệt hại đất nông nghiệp, đất có rừng khi chuyển sang sử dụng vào mục đích khác.

 

2. Biên lai, phiếu thu, hóa đơn thu tiền theo Thông tư số 60/TC-TCT ngày 16 tháng 7 năm 1993 của Bộ Tài chính về hướng dẫn chế độ quản lý thu đối với việc bán nhà thuộc sở hữu nhà nước, việc cấp quyền sử dụng đất xây dựng nhà ở và công trình.

 

3. Biên lai, phiếu thu, hóa đơn hoặc các loại giấy tờ khác chứng minh đã nộp tiền để được sử dụng đất của Ủy ban nhân dân các cấp hoặc của cơ quan, tổ chức giao đất không đúng thẩm quyền”.

 

Tổng cục thuế gửi Công văn số 4281/TCT-CS hướng dẫn khoản 3 điều này như sau:

 

“Giấy tờ chứng minh về việc đã nộp tiền cho cơ quan, tổ chức để được sử dụng đất khi xác định tiền sử dụng đất quy định tại Điểm a, Điểm b Khoản 1 Điều 8 Nghị định số 45/2014/NĐ-CP bao gồm:

 

3. Biên lai, phiếu thu, hóa đơn hoặc các loại giấy tờ khác chứng minh đã nộp tiền để được sử dụng đất của Ủy ban nhân dân các cấp hoặc của cơ quan, tổ chức giao đất không đúng thẩm quyền”.

 

Căn cứ quy định trên, trường hợp hộ gia đình, cá nhân làm thủ tục để được công nhận quyền sử dụng đất đã làm mất biên lai, phiếu thu, hóa đơn nộp tiền để được sử dụng đất; hồ sơ tại UBND các cấp hoặc cơ quan, tổ chức giao đất không đúng thẩm quyền cũng không còn lưu trữ các tài liệu về thu tiền sử dụng đất thì giấy tờ xác nhận của UBND xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức chưa đủ cơ sở để chứng minh việc hộ gia đình, cá nhân đã nộp tiền để được sử dụng đất”.

 

Như vây, theo hướng dẫn của Tổng cục thuế thì giấy xác nhân của ủy ban nhân dân xã là không có giá trị chứng minh trong trường hợp này. Trong khi giây tờ chứng minh hiện tại chỉ có giấy xác nhận của Ủy ban nhân dân xã và phiếu thu của chi cục thuế và không có tên ông A trong đó nên việc chi cục thuế từ chối xác nhận là có căn cứ.

 

Việc công chức văn thư làm thất lạc phiếu thu tiền sử dụng đất đã  làm ảnh hưởng không nhỏ đến quyền lợi của ông A trong sự việc này do đó ông A có thể khiếu nại tới Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã để được giải quyết, nếu không được giải quyết thỏa đáng, ông A có thể tiếp tục khiếu nại tới người có thẩm quyền ở các cấp cao hơn như Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.

 

Trên đây là nội dung tư vấn của Luật Minh Gia về vấn đề bạn yêu cầu tư vấn: Tư vấn trường hợp xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ qua Email hoặc gọi điện đến bộ phận luật sư tư vấn trực tuyến - Số điện thoại liên hệ 1900.6169 để được giải đáp, hỗ trợ kịp thời.

 

Trân trọng!

Hồ Thu Uyên – Công ty Luật Minh Gia

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

Liên hệ tư vấn
Chat zalo