Hoàng Tuấn Anh

Đo đạc đất đai không có đủ những người sử dụng đất có được cấp GCNQSD đất không?

Luật sư tư vấn về trường hợp đo đạc đất đai không có đủ những người sử dụng đất có được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không?

 

Nội dung câu hỏi: Trước đây gia đình tôi sống chung một nhà giữa tôi (sau này ba má sống với tôi) và anh trai tôi (nhà chỉ có 2 con trai) trên thửa đất rộng 2.000m2 (tính cả đất ở và đất vườn). Đến năm 2009 anh trai tôi tách ở riêng cạnh nhà tôi theo yêu cầu của ba má nhưng ba má chưa phân chia ranh giới cụ thể. Đến năm 2012 ba má có phân chia ranh giới giữa 2 gia đình, nhưng anh trai không chấp nhận vì cho rằng ba má phân chia không công bằng (phân chia bằng cách làm hàng rào lô ô, trồng chuối và xác định cây trồng đã có sẵn trong vườn). Đến năm 2014 khi hàng rào đã mục, chuối đã già thì anh trai mời địa chính xã lên đo đạc nhưng chưa bàn bạc với gia đình, tiến hành đo đạc lúc gia đình chúng tôi không có ai ở nhà (tôi đang đi học ở trường Chính trị tỉnh Quảng Nam, mẹ đi công chuyện, ba đang dọn lúa phơi vào nhà) thời gian lúc này tầm 17:00 - 18:00 (theo lời kể của ba) Anh trai thấy nhà chỉ có ba nên nhờ ba chỉ ranh giới, ba lúng túng trước việc làm của con nên lâu ba không chỉ, khi anh trai cứ thúc dục thì ba chỉ một đoạn trong sự vội vàng vì sợ mưa rơi ướt lúa nên ba quay lại dọn lúa. Lúc này anh trai và địa chính xã tiến hành đo đạc, có ý đo lấn phần chỉ của ba là nơi làm hàng rào lô ô và cây chuối, CB địa chính xã thấy anh trai chỉ bị lấn sâu vào vườn nhà tôi nên địa chính có nói "anh xem phần đất của em nữa nha" nên anh trai có đo lùi lại. Khi tôi học xong trở về nhà thì mới biết chuyện và có nói với ba má về ranh giới phân chia, ba má trả lời vẫn theo ra giới cũ. Năm 2017 tôi lên phòng Tài nguyên & Môi trường huyện nhận giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (bìa đỏ), theo GCNQSD đất bên anh trai 800 m2, bên chúng tôi 1.200m2 (trong này có gần 200m2 là các tảng đá, dựa theo bản đồ đã cấp) . Nhưng ranh giới phân chia đúng là anh trai đã tiến hành đo lấn vào đất vườn chúng tôi. Nhưng ba má và tôi chưa thống nhất theo sự đo đạc ranh giới đất đai của anh trai, bởi chúng tôi cho rằng việc tiến hành đo đạc ranh giới đất đai phải có sự thống nhất theo sự phân chia của ba má và có sự chứng kiến của hai bên gia đình. Tháng 3/2018, khi cả nhà chúng tôi vắng nhà (tôi đi tập huấn ở TP. Tam Kỳ, ba đi họp Chi bộ, mẹ đang trông con tôi nơi vợ tôi đang công tác) anh trai tiến hành trồng cây dược liệu Đinh lăng lấn vào vườn chúng tôi, nhưng bị ba má khuyên anh trai đừng trồng lấn, sau một thời gian anh trai không trồng lại đúng quy định nên ba má tiến hành nhổ và trồng lại chổ vườn ổng. Đến tháng 4/2018, anh trai đăng lên facebook với nội dung tuyên bố chủ quyền đất vườn đã có sổ đỏ, la làng nói xấu gia đình chúng tôi lấn chiếm đất vườn nhà ổng, nhổ cây đinh lăng làm hại đến kinh tế gia đình ổng. (Một số nội dung trên được ba ruột và Cán bộ Địa chính xã cung cấp). Thưa luật sư: việc anh trai tiến hành đo đạc đất đai khi chưa có sự thống nhất của hai bên gia đình thì có nên làm không? Việc đăng lên mạng xã hội  những lời nói xấu gia đình chúng tôi kèm hình ảnh bìa đỏ thì có bị vi phạm pháp luật không? Gia đình chúng tôi nên làm thế nào ạ? 

 

Trả lời tư vấn: Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi đề nghị tư vấn đến Công ty Luật Minh Gia, trường hợp của bạn chúng tôi tư vấn như sau:

 

Căn cứ nội dung tại Điều 11 Thông tư số 25/2014/TT-BTNMT ngày 19 tháng 05 năm 2014 nguyên tắc xác định ranh giới thửa đất, lập bản mô tả ranh giới, mốc giới thửa đất như sau:

 

 “1. Xác định ranh giới thửa đất

 

1.1. Trước khi đo vẽ chi tiết, cán bộ đo đạc phải phối hợp với người dẫn đạc (là công chức địa chính cấp xã hoặc cán bộ thôn, xóm, ấp, tổ dân phố... để được hỗ trợ, hướng dẫn việc xác định hiện trạng, ranh giới sử dụng đất), cùng với người sử dụng, quản lý đất liên quan tiến hành xác định ranh giới, mốc giới thửa đất trên thực địa, đánh dấu các đỉnh thửa đất bằng đinh sắt, vạch sơn, cọc bê tông, cọc gỗ và lập Bản mô tả ranh giới, mốc giới thửa đất để làm căn cứ thực hiện đo đạc ranh giới thửa đất; đồng thời, yêu cầu người sử dụng đất xuất trình các giấy tờ liên quan đến thửa đất (có thể cung cấp bản sao các giấy tờ đó không cần công chứng, chứng thực).

 

1.2. Ranh, giới thửa đất được xác định theo hiện trạng đang sử dụng, quản lý và chỉnh lý theo kết quả cấp Giấy chứng nhận, bản án của tòa án có hiệu lực thi hành, kết quả giải quyết tranh chấp của cấp có thẩm quyền, các quyết định hành chính của cấp có thẩm quyền có liên quan đến ranh giới thửa đất.

 

Trường hợp đang có tranh chấp về ranh giới thửa đất thì đơn vị đo đạc có trách nhiệm báo cáo bằng văn bản cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có thửa đất để giải quyết. Trường hợp tranh chấp chưa giải quyết xong trong thời gian đo đạc ở địa phương mà xác định được ranh giới thực tế đang sử dụng, quản lý thì đo đạc theo ranh giới thực tế đang sử dụng, quản lý đó; nếu không thể xác định được ranh giới thực tế đang sử dụng, quản lý thi được phép đo vẽ khoanh bao các thửa đất tranh chấp; đơn vị đo đạc có trách nhiệm lập bản mô tả thực trạng phần đất đang tranh chấp thành 02 bản, một bản lưu hồ sơ đo đạc, một bản gửi Ủy ban nhân dân cấp xã để thực hiện các bước giải quyết tranh chấp tiếp theo theo thẩm quyền.

...".

 

Tại Khoản 2 Điều 8 Thông tư 33/2017/TT-BTNMT Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 25/2014/TT-BTNMT ngày 19 tháng 5 năm 2014 quy định về bản đồ địa chính:


... 
2. Sửa đổi, bổ sung Điểm 2.4 Khoản 2 Điều 11 như sau: 

 

“2.4. Trường hợp người sử dụng đất, người sử dụng đất liền kề vắng mặt trong suốt thời gian đo đạc thì việc lập bản mô tả ranh giới, mốc giới thửa đất được cán bộ đo đạc, các bên liên quan còn lại và người dẫn đạc xác định theo thực địa và theo hồ sơ thửa đất liên quan (nếu có). Đơn vị đo đạc chuyển Bản mô tả ranh giới, mốc giới thửa đất đã lập cho Ủy ban nhân dân cấp xã để xác nhận vắng mặt và thông báo trên loa truyền thanh của cấp xã, niêm yết công khai tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã để người sử dụng đất đến ký xác nhận. Sau 15 ngày kể từ ngày thông báo mà người sử dụng đất không có mặt và không có khiếu nại, tranh chấp liên quan đến ranh giới, mốc giới thửa đất thì ranh giới thửa đất được xác định theo bản mô tả đã lập. 

 

Trường hợp sau 10 ngày kể từ ngày nhận được Bản mô tả ranh giới, mốc giới thửa đất mà người sử dụng đất liền kề không ký xác nhận, đồng thời không có văn bản thể hiện việc có tranh chấp, khiếu nại, tố cáo có liên quan đến ranh giới thửa đất thì ranh giới thửa đất được xác định theo bản mô tả đã được các bên liên quan còn lại, người dẫn đạc ký xác nhận và ghi rõ lý do người sử dụng đất liền kề đó không ký xác nhận vào phần “lý do không đồng ý” trong Bản mô tả ranh giới, mốc giới thửa đất. 

 

Đơn vị đo đạc có trách nhiệm lập danh sách các trường hợp nêu trên để gửi cho Ủy ban nhân dân cấp xã biết và lưu hồ sơ đo đạc.”

 

Theo các căn trên, khi xác định ranh giới thửa đất, cán bộ đo đạc phải phối hợp với người dẫn đạc, cùng với người sử dụng, quản lý đất liên quan tiến hành xác định ranh giới, mốc giới thửa đất trên thực địa. Hiện tại những người sử dụng đất bao gồm có bố mẹ, 2 anh em bạn. Trong thời gian đo đạc, việc thực hiện có anh trai và bố bạn xác nhận cùng với cán bộ đo đạc là phù hợp theo quy định. Nếu vắng mặt thì việc lập bản mô tả ranh giới, mốc giới thửa đất được các bên liên quan còn lại xác định.

 

- Trường hợp thứ nhất: Ủy bạn nhân dân (UBND) cấp xã thực hiện đúng thủ tục là thông báo trên loa truyền thanh của cấp xã, niêm yết công khai tại trụ sở UBND cấp xã để người sử dụng đất (vắng mặt trong thời gian đo đạc) đến ký xác nhận. Nếu bạn biết được các thông tin mà UBND xã đã thông báo mà sau 15 ngày, bạn không có mặt và không có khiếu nại, tranh chấp liên quan đến ranh giới, mốc giới thửa đất thì ranh giới thửa đất được xác định theo bản mô tả đã lập. 

 

- Trường hợp thứ hai: UBND xã thực hiện không đúng thủ tục nêu trên dẫn đến việc bạn không biết được các thông tin liên quan đến việc xác nhận đo đạc đất làm ảnh hưởng đến quyền lợi của bạn. Bạn thực hiện khiếu nại lên UBND cấp xã để giải quyết theo quy định tại Điều 17 Luật khiếu nại 2011 như sau:

 

Theo Điều 17 Luật khiếu nại 2011 quy định:

 

“Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã); Thủ trưởng cơ quan thuộc Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện) có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của mình, của người có trách nhiệm do mình quản lý trực tiếp”.

 

Về hành vi nói xấu trên mạng xã hội

 

Theo Điều 34 Bộ luật dân sự 2015 quy định Quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín

“...

2. Cá nhân có quyền yêu cầu Tòa án bác bỏ thông tin làm ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của mình.

..

3. Thông tin ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân được đăng tải trên phương tiện thông tin đại chúng nào thì phải được gỡ bỏ, cải chính bằng chính phương tiện thông tin đại chúng đó. Nếu thông tin này được cơ quan, tổ chức, cá nhân cất giữ thì phải được hủy bỏ.

5. Cá nhân bị thông tin làm ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm, uy tín thì ngoài quyền yêu cầu bác bỏ thông tin đó còn có quyền yêu cầu người đưa ra thông tin xin lỗi, cải chính công khai và bồi thường thiệt hại”.

 

Theo Điều 592 Bộ luật dân sự 2015 quy định Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm:

 

“1. Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm bao gồm:

 

a) Chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại;

 

b) Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút;

 

c) Thiệt hại khác do luật quy định.

 

2. Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm không quá mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định”.

 

Do đó, việc anh trai đăng lên mạng xã hội những lời nói xấu gia đình bạn, bạn quyền yêu cầu yêu cầu anh trai bạn hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền buộc người vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai và bồi thường thiệt hại.

 

Ngoài ra anh bạn có thể bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại Điều 5 Nghị định số 72/2013/NĐ-CP ngày 15/7/2013 của Chính phủ về quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng đã quy định các hành vi bị cấm:

“..

d) Đưa thông tin xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự và nhân phẩm của cá nhân;

...”

 

Tất cả các hành vi xuyên tạc, đưa thông tin không có, không đúng sự thật, vu khống nhằm xúc phạm uy tín tổ chức, danh dự nhân phẩm cá nhân đều bị cấm.

 

Trên đây là nội dung tư vấn của Luật Minh Gia về vấn đề bạn hỏi và quan tâm. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ cần luật sư giải đáp, bạn vui lòng gọi đến Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến của chúng tôi - Số điện thoại liên hệ: 1900.6169 để được hỗ trợ kịp thời.

 

Trân trọng.
CV tư vấn: Lê Phương Thảo - Luật Minh Gia 

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

Tư vấn nhanh