LS Xuân Thuận

Giải quyết tranh chấp di sản thừa kế khi không có di chúc

Câu hỏi đề nghị tư vấn: Chào luật sư, Tôi tên H, chồng tôi mất năm 2011 nhưng không để lại di chúc. Tài sản trong thời kỳ hôn nhân do vợ chồng tôi đứng tên bao gồm: 1. Nhà đang ở - Đứng tên tôi; 2. Đất trống - Đứng tên "Hộ bà: H'' chủ hộ là tôi...

 
3. Đất trống - Đứng tên vợ chồng tôi (toàn bộ 3 phần tài sản trên là do vợ chồng tôi tự làm ra)
 
4. Đất trống - Đứng tên chồng tôi (phần này là do bố mẹ chồng tôi tặng cho con trai)
 
Vợ chồng tôi có 2 con, ba mẹ chồng tôi có tổng cộng 7 người con (bao gồm chồng tôi). Tuy nhiên, đến năm 2014 thì bố chồng tôi qua đời. Hiện tại chỉ còn mẹ chồng tôi và các em của chồng tôi (6 người). Hiện tại, tôi muốn chuyển nhượng lại quyền sử dụng đất của 4 nơi đã nêu trên cho 2 con mình nên bắt buộc phải hoàn thành việc phân chia tài sản mà chồng tôi để lại.
 
Theo tôi được biết, thời điểm chồng tôi mất được xem là thời điểm mở thừa kế và những người sau đây thuộc hàng thừa kế thứ nhất:
 
- 2 con của chúng tôi
 
- Tôi
 
- Bố mẹ chồng tôi
 
Do bố chồng tôi đã mất nên phần ông thừa hưởng từ chồng tôi sẽ được chia lại cho các em của chồng tôi, thuộc hàng thừa kế thứ 2 (6 người).
 
Hiện tại mẹ chồng tôi đã già yếu, không đi lại được và không đồng ý ký tên vào bất cứ loại giấy tờ nào, các em chồng tôi cũng không đồng ý tạo điều kiện cho tôi thực hiện thủ tục xác minh tài sản.
 
Vậy:
 
1. Tôi có thể đơn phương yêu cầu tòa án giải quyết tranh chấp hay không (do mẹ chồng và các em chồng không hợp tác)?
 
2. Tôi chấp nhận trả số tiền tương đương với tài sản mà mẹ chồng và các em chồng được thừa kế từ chồng tôi, mong luật sư có thể tư vấn trong trường hợp này số tiền phải chia lại cho mẹ chồng tôi và các em chồng là bao nhiêu?
 
3. Tiền án phí là bao nhiêu, giả sử định giá tổng tài sản là 3 tỷ đồng.
 
Mục tiêu cuối cùng của tôi là để 2 con đứng tên toàn bộ tài sản của vợ chồng mình, mong luật sư giúp đỡ. Xin cảm ơn.
 
Trả lời: Cảm ơn chị đã gửi câu hỏi cần tư vấn đến công ty luật Minh Gia, trường hợp của chị chúng tôi tư vấn như sau:
 
I. Về cách giải quyết việc hiện gia đình nhà chồng gây khó dễ, chị có thể kiện ra Tòa án nhân dân cấp quận nơi mẹ chồng và các em có hộ khẩu thường trú để yêu cầu chia thừa kế do chưa hết thời hiệu khởi kiện.
 
II. Về việc xác định phần chia cho người nhà chồng, nếu chồng chị không có di chúc thì di sản của chồng chị sẽ được chia đều cho những người thừa kế theo pháp luật của chồng. Cụ thể:
 
* Căn cứ pháp lý:
 
Điều 33 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 về tài sản chung của vợ chồng
 
“1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
 
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.
 
2. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.
 
3. Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung.”
 
Điều 43 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 về tài sản riêng của vợ, chồng quy định:
 
“1. Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại các điều 38, 39 và 40 của Luật này; tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng.
 
2. Tài sản được hình thành từ tài sản riêng của vợ, chồng cũng là tài sản riêng của vợ, chồng. Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 33 và khoản 1 Điều 40 của Luật này.”
 
Điều 676 Bộ luật Dân sự 2005 về người thừa kế theo pháp luật quy định:
 
“1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
 
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
 
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
 
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
 
2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
 
3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.”
 
* Áp dụng căn cứ trên vào trường hợp của chị như sau:
 
Trước hết, xác định di sản của chồng chị bao gồm:
 
1. ½ căn nhà ở Thủ dầu một đứng tên chị (nếu căn nhà này hình thành trong thời kỳ hôn nhân, nguồn gốc không phải chị được tặng cho hay thừa kế riêng),
 
2. Một phần bãi đất trống ở Thủ dầu một đứng tên "Hộ bà: Nguyễn Thị Hai" chủ hộ là chị nếu chồng chị có chung hộ khẩu ở bãi đất này vào thời điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (phần của chồng sẽ tùy vào số người có tên trong sổ hộ khẩu thời điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất),
 
3. ½ phần đất trống ở Thủ dầu một đứng tên vợ chồng chị,
 
4. Toàn bộ phần đất trống ở Bến cát đứng tên chồng chị nếu phần này là do bố mẹ chồng chị tặng cho riêng con trai (trừ trường hợp hai vợ chồng đã có thỏa thuận nhập tài sản này vào khối tài sản chung).
 
Tiếp theo, xác định phần chia như sau:
 
Các di sản trên của chồng chị sẽ được chia đều cho tất cả những người thừa kế theo pháp luật của chồng chị (đúng như chị đã nói) bao gồm: cha mẹ đẻ của chồng, cha mẹ nuôi của chồng, chị, và tất cả con đẻ con nuôi của chồng.
 
Với việc bố chồng qua đời sau chồng chị, nếu bố chồng không có di chúc thì phần di sản bố chồng được hưởng từ chồng chị sẽ chia đều cho những người thừa kế của bố chồng bao gồm: cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi của bố chồng (nếu còn sống hoặc qua đời sau bố chồng), mẹ chồng và tất cả các con đẻ và con nuôi của bố chồng.
 
Như vậy, chị có thể tính ra số tiền chia cho những người nhà chồng tương ứng với tổng giá trị di sản và các phần chia như trên.
 
III. Về án phí, căn cứ theo Pháp lệnh số 10/2009/UBTVQH12 về án phí, lệ phí tòa án, án phí dân sự phân chia tài sản có tranh chấp giá trị từ 2 tỷ đến 4 tỷ là 72 triệu đồng + 2% phần giá trị vượt 2 tỷ đồng.
 

Trên đây là nội dung tư vấn của Luật Minh Gia về vấn đề bạn yêu cầu tư vấn: Giải quyết tranh chấp di sản thừa kế khi không có di chúc. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ qua Email hoặc gọi điện đến bộ phận luật sư tư vấn trực tuyến - Số điện thoại liên hệ 1900.6169 để được giải đáp, hỗ trợ kịp thời.

 

Trân trọng


Luật gia Nguyễn Thúy Hạnh – công ty Luật Minh Gia

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

Liên hệ tư vấn
Chat zalo