Hoàng Tuấn Anh

Chia thừa kế theo di chúc và chia thừa kế theo pháp luật như thế nào?

Luật Minh Gia tư vấn về việc giải quyết tranh chấp về thừa kế đối với tài sản là quyền sử dụng đất do ông bà để lại, tuy nhiên có di chúc của người ông được lập từ năm 2000.

 

Nội dung câu hỏi tư vấn: kính gửi công ty luật đất đai gia đình ông bà em có 6 người con, 4 gái và 2 trai. Năm 2000 bà nội e mất sau khi bà nội e mất, ông nội có viết di chúc để lại mảnh đất cho 2 anh e trai là bác em và bố em thừa hưởng mảnh đất ấy. Năm 2004 do điều kiện ở xa bác lấy vợ ở xa và ở rễ ở đấy có về bán nửa mảnh đất khi đó bố mẹ em đã mua lạị lúc đó chỉ ghi giấy tờ bằng tay do bác em viết và có đóng dấu ở xã. Nhà e chưa làm lại trích lục vẫn đứng tên ông nội. Bố em lấy một người vợ sinh được một anh trai do không hợp nhau nên đã li hôn, lúc đấy sổ đỏ vẫn đứng tên ông bà nên bố e không có quyền chia tài sản chỉ chu cấp cho con bà vợ trước ăn học đủ 18 tuổi. Năm 2017 do gặp tai nạn bố em bị mất. Đầu năm nay mẹ em có lên xã làm lại trích lục đất trong quá trình làm thì nhận đc đơn kiện tranh chấp về miếng đất gia đình em đang ở. Người kiện là con của bà vợ trước của cha em và các con của ông bà (bác trai và các bác gái). Họ kiện để tranh chấp quyền lợi từ miếng đất ấy lên xã nên gia đình em không làm lại được sổ đỏ. Các bác ở xã bảo do có đơn tranh chấp đất nên xã không thể giải quyết cấp sổ cho gia đình được. xin hỏi luật sư thì anh bà vợ trước có được chia đất không ạ các bác gái nhà e đã đi lấy chồng thì có được hưởng đất của gia đình em không ạ. bây giờ gia đình em phải làm sao mới làm được trích lục đứng tên mẹ em và 3 chị em ạ mong công ty luật tư vấn giúp em

 

Trả lời tư vấn: Chào bạn, cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi đề nghị tư vấn đến Công ty Luật Minh Gia, trường hợp của bạn chúng tôi tư vấn như sau:

 

Thứ nhất, quy định về việc chia thừa kế.

 

Trường hợp của bạn là ông nội bạn viết di chúc để lại mảnh đất cho bố bạn và bác của bạn mỗi người một nửa vào năm 2000, tuy nhiên bạn không đề cập về mảnh đất này là tài sản chung của ông và bà bạn hay là tài sản riêng của ông bạn. Do đó ta xét 2 trường hợp.

 

* Trường hợp 1: mảnh đất này là tài sản chung của ông và bà của bạn. Vì vậy, trong trường hợp này mảnh đất của ông và bà bạn phải chia đôi.

 

Đối với phần đất của bà bạn thì vì bà không để lại di chúc nên sẽ chia thừa kế theo pháp luật, gia đình gồm ông và 6 người con nên cả 7 người được chia đều phần đất bà để lại. 

 

Đối với phần diện tích đất thuộc quyền sử dụng của người ông: Nếu di chúc mà ông của bạn để lại là bản di chúc hợp pháp thì việc phân chia di sản mà người ông để lại sẽ được chia theo di chúc, tức là bố của bạn và bác của bạn là những người được hưởng di sản của người ông theo di chúc.

 

* Trường hợp 2: mảnh đất này là tài sản riêng của ông bạn thì toàn bộ thửa đất mà ông của bạn để lại sẽ được chia theo nội dung của di chúc, trừ trường hợp di chúc bị vô hiệu hoặc có người được hưởng di sản không phụ thuộc vào nội dung của di chúc.

 

Theo thông tin bạn cung cấp thì di chúc được lập vào khoảng năm 2000, vì vậy việc xác định hiệu lực của di chúc sẽ tuân theo quy định tại Điều 655 Bộ luật dân sự năm 1995. Cụ thể:

 

"Điều 655. Di chúc hợp pháp

Di chúc được coi là hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:

a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ hoặc cưỡng ép;

b) Nội dung di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của pháp luật.

2- Di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được lập thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý.

3- Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có chứng nhận của Công chứng nhà nước hoặc chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn.

4- Di chúc bằng văn bản không có chứng nhận, chứng thực như quy định tại Điều 660 của Bộ luật này chỉ được coi là hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều này."

 

Mặt khác, còn phải xác định tại thời điểm mở thừa kế (thời điểm người ông chết), có người nào thuộc đối tượng được hưởng thừa kế mà không phụ thuộc vào nội dung của di chúc hay không theo quy định tại Điều 672 Bộ luật dân sự 1995.

 

Cụ thể, Điều 672 BLDS 1995 quy định như sau: 

 

"Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật, nếu như di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó, trừ khi họ là những người từ chối hưởng di sản hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại Điều 645 hoặc khoản 1 Điều 646 của Bộ luật này:

 

1- Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;

 

2- Con đã thành niên mà không có khả năng lao động."

 

Như vậy, nếu hiện tại xảy ra tranh chấp giữa những người thừa kế thì việc giải quyết tranh chấp phải căn cứ vào việc xác định tính hợp pháp của bản di chúc mà ông của bạn lập vào năm 2000, đồng thời xác định thửa đất đang tranh chấp thuộc di sản của ai để lại. 

 

Ngoài ra, do bố của bạn mất nhưng không để lại di chúc, do vậy những người thuộc hàng thừa kế của bố bạn cũng có quyền yêu cầu chia di sản thừa kế mà bố bạn để lại. Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 651 Bộ luật dân sự năm 2015, hàng thừa kế thứ nhất của bố bạn gồm: vợ, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết.

 

Theo đó, người con của vợ trước của bố bạn cũng được xác định là người thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất.

 

Thứ hai, về việc đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất khi có tranh chấp.

 

Theo quy định tại Điều 100 và Điều 101 Luật đất đai năm 2013 thì trường hợp đất có giấy tờ ghi tên của người khác hoặc đất không có giấy tờ để chứng minh quyền sử dụng đất theo quy định tại khoản 1 Điều 100 Luật đât đai 2013, một trong các điều kiện để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là đất phải không có tranh chấp.

 

Theo đó, trong trường hợp này, tranh chấp phải được giải quyết bằng một quyết định của cơ quan có thẩm quyền, cụ thể thẩm quyền giải quyết tranh chấp về thừa kế thuộc thẩm quyền của tòa án nhân dân.

 

Trên đây là nội dung tư vấn của Luật Minh Gia về vấn đề bạn hỏi và quan tâm. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ cần luật sư giải đáp, bạn vui lòng  liên hệ đến công ty Luật Minh Gia để được hỗ trợ kịp thời.

 

Trân trọng.
CV tư vấn: Hoàng Tuấn Anh - Luật Minh Gia

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

Liên hệ tư vấn
Chat zalo