Lò Thị Loan

Hành vi xâm hại tình dục trẻ em?

Luật sư tư vấn về: hành vi phạm tội hiếp dâm trẻ em trong trường hợp người phạm tội mới 14 tuổi và người bị hại dưới 13 tuổi.

Luật sư tư vấn về: Em tôi bị xâm hại tình dục khi chưa đủ 13 tuổi còn người xâm hại em tôi thì mới có 14 tuổi . Tôi đưa em tôi tới bệnh viện kiểm tra thì người ta nói rằng có tinh dịch nên tôi đưa em tôi đi ra trình báo công an nhưng do người xâm hại em tôi mới có 14 tuổi nên ko giải quyết và kêu người nhà tự cho lên viện giám định nhưng khi lên viện giám định pháp y người ta kêu phải có giấy của công an . Cho tôi hỏi luật sư tôi nên giải quyết vấn đề này ra sao mong luật sư giúp đỡ . Tôi mong luật sư trả lời sớm giúp tôi . Chân thành cảm ơn luậy sư nếu luật sư chỉ bảo tư vấn giúp.

 

Trả lời: Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi đề nghị tư vấn đến Công ty Luật Minh Gia, trường hợp của bạn chúng tôi tư vấn như sau:

 

Để thuận lợi cho việc tư vấn, tôi xin giả định gọi em gái bạn là A và bạn trai - người xâm hại tình dục là B. Do thông tin bạn cung cấp không rõ ràng nên chúng tôi giả định các trường hợp sau đây:

 

Trường hợp 1: B đủ 14 tuổi theo luật định: 

 

Theo Điều 142 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định về Tội hiếp dâm trẻ em như sau:

 

“1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

 

a) Dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi trái với ý muốn của họ;

 

b) Giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người dưới 13 tuổi.

…”

 

Như vậy thì mọi hành vi giao cấu với trẻ em dưới 13 tuổi đều là hành vi hiếp dâm trẻ em (kể cả trong trường hợp nạn nhân hoàn toàn tự nguyện).

 

Điều 12 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi 2017) quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự như sau:

 

“1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác.

 

2. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này.”

 

Khoản 2 Điều 9 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi 2017) quy định về phân loại tội phạm như sau:

 

“c) Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 07 năm tù đến 15 năm tù;

 

d) Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 15 năm tù đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.”

 

Như vậy, tội hiếp dâm trẻ em theo khoản 1 Điều 142 BLHS là tội phạm rất nghiêm trọng, B cũng đủ 14 tuổi theo luật định. Do đó, nếu B có hành vi giao cấu với A thì B sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi, mức phạt tù là từ 07 năm đến 15 năm. Mức phạt tù cụ thể còn tùy thuộc vào các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

 

Trường hợp 2: B chưa đủ 14 tuổi.

 

Theo quy định tại Điều 12 về tuổi chịu trách nhiệm hình sự đã nêu trên thì nếu B chưa đủ 16 tuổi thì sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi này.

 

Về vấn đề yêu cầu giám định

 

Điều 22 Luật giám định tư pháp 2012 quy định về Quyền, nghĩa vụ của người yêu cầu giám định tư pháp như sau:

 

“1. Người yêu cầu giám định có quyền gửi văn bản yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trưng cầu giám định. Trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng không chấp nhận yêu cầu thì trong thời hạn 07 ngày phải thông báo cho người yêu cầu giám định bằng văn bản. Hết thời hạn nói trên hoặc kể từ ngày nhận được thông báo từ chối trưng cầu giám định, người yêu cầu giám định có quyền tự mình yêu cầu giám định.

 

2. Người yêu cầu giám định có quyền:

 

a) Yêu cầu cá nhân, tổ chức thực hiện giám định tư pháp trả kết luận giám định đúng thời hạn đã thỏa thuận và theo nội dung đã yêu cầu;

 

b) Yêu cầu cá nhân, tổ chức đã thực hiện giám định tư pháp giải thích kết luận giám định;

 

c) Đề nghị Toà án triệu tập người giám định tư pháp đã thực hiện giám định tham gia phiên tòa để giải thích, trình bày về kết luận giám định;

 

d) Yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trưng cầu giám định lại; yêu cầu giám định bổ sung theo quy định tại khoản 1 Điều 29 của Luật này.

…”

Như vậy, thông thường việc yêu cầu giám định tư pháp phải được thực hiện thông qua cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Tuy nhiên, nếu các cơ quan này từ chối yêu cầu giám định thì có trách nhiệm gửi thông báo bằng văn bản cho gia đình bạn trong thời hạn 07 ngày. Hết thời hạn này gia đình bạn có quyền tự yêu cầu thực hiện giám định. Do đó, nếu gia đình bạn muốn tự giám định thì cần có văn bản từ chối giám định của cơ quan có thẩm quyền hoặc có giấy tờ chứng minh đã hết thời hạn 07 ngày kể từ ngày yêu cầu mà cơ quan có thẩm quyền không trả lời yêu cầu giám định của gia đình bạn.

 

Bên cạnh đó, bạn có thể tham khảo quy định pháp luật tại Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi năm 2009 như sau:

 

Trường hợp 1: B đủ 14 tuổi theo luật định: 

 

Theo Điều 112, Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về Tội hiếp dâm trẻ em như sau:

 

“1. Người nào hiếp dâm trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.

 

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm:

 

a) Có tính chất loạn luân;

 

b) Làm nạn nhân có thai;

 

c) Gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%;

 

d) Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh;

 

đ) Tái phạm nguy hiểm”

 

Căn cứ theo quy định tại khoản 4 điều 112 BLHS 1999: “4. Mọi trường hợp giao cấu với trẻ em chưa đủ 13 tuổi là phạm tội hiếp dâm trẻ em và người phạm tội bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình.” Như vậy thì mọi hành vi giao cấu với trẻ em dưới 13 tuổi đều là hành vi hiếp dâm trẻ em (kể cả trong trường hợp nạn nhân hoàn toàn tự nguyện).

 

Tuy nhiên B chỉ mới 14 tuổi. Pháp luật quy định về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự như sau:“2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.”

 

Khoản 3 Điều 8, BLHS 1999 quy định: “…, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.”

 

Như vậy, tội hiếp dâm trẻ em theo khoản 4 Điều 112 BLHS 1999 là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, B cũng đủ 14 tuổi theo luật định. Do đó, nếu B có hành vi giao cấu với A thì B sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội hiếp dâm trẻ em, mức phạt tù là từ 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình. Mức phạt tù cụ thể còn tùy thuộc vào các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

 

Trường hợp 2: B chưa đủ 14 tuổi.

 

Điều 12, BLHS 1999 quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự như sau:

 

“1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm.

 

2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.”

 

Do B chưa đủ 14 tuổi nên B chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo luật định. Như vậy nếu B có hành vi giao cấu với A thì cũng phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi của mình và có thể B sẽ bị đưa vào trại cải tạo, giáo dưỡng,..

 

Trân trọng.
Luật gia / CV tư vấn: Hương Giang - Luật Minh Gia

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

Liên hệ tư vấn