Đường cơ sở là gì theo quy định luật biển?
Mục lục bài viết
1. Khái niệm đường cơ sở của quốc gia ven biển
Công ước Luật biển năm 1982 (UNCLOS 1982) đã xác định rõ vai trò của đường cơ sở trong việc hoạch định; xác định vị trí các vùng biển. Tuy nhiên, định nghĩa về “đường cơ sở” vẫn chưa được đề cập đến một cách chính xác. UNCLOS 1982 không đưa ra một định nghĩa chung nhất về đường cơ sở. Tuy nhiên, dựa vào những quy định của UNCLOS 1982 thì có thể hiểu rằng: đường cơ sở của quốc gia ven biển chính là căn cứ để xác định các vùng biển của quốc gia ven biển; nó chính là đường ranh giới trong của lãnh hải và là ranh giới ngoài của nội thuỷ.
Đường cơ sở theo Luật Biển Việt Nam năm 2012 tại Việt Nam nêu rõ: “Đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam là đường cơ sở thẳng đã được Chính phủ công bố. Chính phủ xác định và công bố đường cơ sở ở những khu vực chưa có đường cơ sở khi được Ủy ban Thường vụ Quốc hội phê chuẩn”.
Theo đó, Đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải lục địa Việt Nam là đường thẳng gẫy khúc nối liền các điểm có tọa độ ghi trong phụ lục đính kèm Tuyên bố của Chính phủ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam ngày 12-11-1982. Đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam từ điểm tiếp giáp 0 của hai đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải nước Cộng hòa XHCN Việt Nam và nước Cộng hòa nhân dân Cam-pu-chia nằm giữa biển, trên đường thẳng nối liền quần đảo Thổ Chu và đảo Poulo Wai, đến đảo Cồn Cỏ theo các tọa độ ghi trong phụ lục, được vạch trên các bản đồ tỷ lệ 1/100.000 của Hải quân nhân dân Việt Nam xuất bản năm 1979.
2. Cách xác định đường cơ sở của quốc gia ven biển
Theo quy định tại Công ước Luật biển 1982 thì có hai cách để xác định đường cơ sở của quốc gia ven biển.
- Phương pháp đường cơ sở thẳng:
+ Ở nơi nào bờ biển bị khoét sâu và lồi lõm hoặc nếu có một chuỗi đảo nằm sát ngay và chạy dọc theo bờ biển, phương pháp đường cơ sở thẳng nối liền các điểm thích hợp có thể được sử dụng để kẻ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải.
+ Ở nơi nào bờ biển cực kỳ không ổn định do có một châu thổ và những đặc điểm tự nhiên khác, các điểm thích hợp có thể được lựa chọn dọc theo ngấn nước triều thấp nhất có chuyển dịch vào phía trong bờ, các đường cơ sở đã được vạch ra vẫn có hiệu lực cho tới khi các quốc gia ven biển sửa đổi đúng theo Công ước.
+ Tuyến các đường cơ sở không được đi chệch quá xa hướng chung của bờ biển, và các vùng biển ở bên trong các đường cơ sở này phải gắn với đắt liền đủ đến mức đạt được chế độ nội thủy.
+ Các đường cơ sở thẳng không được kéo đến hoặc xuất phát từ các bãi cạn lúc nổi lúc chìm, trừ trường hợp ở đó có những đèn biển hoặc các thiết bị tương tự thường xuyên nhô trên mặt nước hoặc việc vạch các đường cơ sở thẳng đó đã được sự thừa nhận chung của quốc tế.
+ Trong những trường hợp mà phương pháp kẻ đường cơ sở thẳng được áp dụng theo khoản 1, khi ấn định một số đoạn đường cơ sở có thể tính đến những lợi ích kinh tế riêng biệt của khu vực đó mà thực tế và tầm quan trọng của nó đã được một quá trình sử dụng lâu dài chứng minh rõ ràng.
+ Phương pháp đường cơ sở thẳng do một quốc gia áp dụng không được làm cho lãnh hải của một quốc gia khác bị tách khỏi biển cả hoặc một vùng đặc quyền kinh tế.
- Phương pháp đường cơ sở thông thường:
+ Trừ khi có quy định trái ngược của Công ước, đường cơ sở thông thường dùng để tính chiều rộng lãnh hải là ngấn nước triều thấp nhất dọc theo bờ biển, như được thể hiện trên các hải đồ tỷ lệ lớn đã được quốc gia ven biển chính thức công nhận.
+ Phương pháp đường cơ sở thông thường được áp dụng khi quốc gia ven biển có đường bờ biển với địa hình có cấu trúc thông thường; đơn giản; không có các đặc điểm gây khó khăn cho việc vạch đường cơ sở thông thường.
Trân trọng !
Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất