Vũ Thanh Thủy

Chế độ giải quyết trợ cấp thôi việc

Nội dung câu hỏi: Kính gửi Công ty Luật Minh Gia. Tôi và số anh em lao động làm việc tại Công ty Cổ phần nay đã nghỉ hưu trước tuổi xin Công ty Luật tư vấn về chế độ trợ cấp thôi việc.

 

Nguyên trước đây những người lao động (trong đó có 05 anh em chúng tôi hiện nay) làm việc ở Nhà máy cơ khí, năm 1991 do điều kiện việc làm lúc bấy giờ tại tỉnh chúng tôi thành lập nhà máy liên doanh Thép  (gọi tắt là Nhà máy thép) 50% số lao động từ nhà máy cơ khí chuyển qua và 50% số lao động còn ở lại nhà máy. Năm 1998 Nhà máy thép năm 2008 chuyển đổi thành Công ty Cổ phần. Từ trước năm 2010 số lao động trước đây không đủ sức khỏe lao động tiếp tục và xin nghỉ việc, Công ty trợ cấp thôi việc tính cả thời gian làm tại nhà máy cơ khí. Nhưng từ năm 2013 đến nay, do Công ty thay đổi Tổng Giám đốc, thay đổi kế toán trưởng nên số lao động xin chấm dứt hợp đồng lao động (chấm dứt HĐLĐ đúng luật) Công ty không thanh toán tiền trợ câp thời gian làm tại nhà máy cơ khí, chỉ thanh toán thời gian trợ cấp thôi việc làm tại Nhà máy thép đến nay. Với lý do: 1/ Đơn vị không có văn bản để chi trả tiền trợ cấp thời gian trước 1991 (mặc dù có Nghị định 05/2015/NĐ-CP ngày 12/01/2015) 2/ Cá nhân đã tham gia thời gian Nhà máy cơ khí thì đến đơn vị chuyển tiếp nhà máy để làm đơn trợ cấp (Nhà máy cơ khí hiện nay đã sáp nhập nhiều đơn vị tại địa phương và nay cũng không còn tên gọi và đơn vị quản lý). Vậy cho tôi xin được Công ty Luật tư vấn giúp về chế độ chi trả trợ cấp lao động và trường hợp an hem chúng tôi đơn vị Công ty Cổ phần  thực hiện nghĩa vụ như thế nào với thời gian chúng tôi công tác trước năm 1991. Xin chân thành cảm ơn!

 

Trả lời:

 

Chào bạn, cảm ơn bạn đã gửi yêu cầu tư vấn tới công ty Luật Minh Gia, chúng tôi xin đưa ra tư vấn cho trường hợp của bạn như sau:

 

Theo quy định tại Điều 15 Nghị định 05/2015/NĐ-CP:

 

“1. Trường hợp chuyển quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng tài sản của doanh nghiệp, người sử dụng lao động trước đó có trách nhiệm xây dựng phương án sử dụng lao động theo quy định tại Điều 46 của Bộ luật Lao động. 

 

2. Người lao động phải chấm dứt hợp đồng lao động theo phương án sử dụng lao động quy định tại Khoản 1 Điều này thì người sử dụng lao động có trách nhiệm tính trả trợ cấp mất việc làm theo quy định tại Điều 49 của Bộ luật Lao động.

 

3. Người lao động tiếp tục được sử dụng, người lao động đưa đi đào tạo lại để tiếp tục sử dụng, người lao động được chuyển sang làm việc không trọn thời gian tại doanh nghiệp sau khi chuyển quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng tài sản theo phương án sử dụng lao động quy định tại Khoản 1 Điều này, khi chấm dứt hợp đồng lao động thì người sử dụng lao động kế tiếp có trách nhiệm tính trả trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 48 hoặc trợ cấp mất việc làm theo quy định tại Điều 49 của Bộ luật Lao động đối với thời gian người lao động làm việc thực tế cho mình và trợ cấp thôi việc đối với thời gian người lao động làm việc thực tế tại doanh nghiệp trước khi chuyển quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng tài sản, kể cả thời gian làm việc tại khu vực nhà nước được tuyển dụng lần cuối vào doanh nghiệp chuyển quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng tài sản trước ngày 01 tháng 01 năm 1995.”.

 

Theo quy định trên, khi nhà máy cơ khí chuyển sang nhà máy thép và chuyển đổi thành công ty cổ phần thì đối với những lao động được tiếp tục sử dụng khi công ty chuyển đổi mà chấm dứt hợp đồng lao động thì NSDLĐ kế tiếp (ở đây là công ty cổ phần) có trách nhiệm chi trả trợ cấp thôi việc đối với thời gian người lao động làm việc cho mình và thời gian làm việc thực tế tại doanh nghiệp trước đó (nhà máy cơ khí). Việc công ty không thanh toán tiền trợ cấp thời gian làm tại nhà máy cơ khí, chỉ thanh toán thời gian trợ cấp thôi việc làm tại Nhà máy thép đến nay với lý do đơn vị không có văn bản để chi trả tiền trợ cấp thời gian trước 1991 là không đúng theo quy định pháp luật.

 

Chế độ trợ cấp thôi việc mà bạn và những người lao động chấm dứt hợp đồng đúng pháp luật được hưởng theo Điều 48 BLLĐ 2012:

 

“1. Khi hợp đồng lao động chấm dứt theo quy định tại các khoản 1, 2, 3, 5, 6, 7, 9 và 10 Điều 36 của Bộ luật này thì người sử dụng lao động có trách nhiệm chi trả trợ cấp thôi việc cho người lao động đã làm việc thường xuyên từ đủ 12 tháng trở lên, mỗi năm làm việc được trợ cấp một nửa tháng tiền lương.

 

2. Thời gian làm việc để tính trợ cấp thôi việc là tổng thời gian người lao động đã làm việc thực tế cho người sử dụng lao động trừ đi thời gian người lao động đã tham gia bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của Luật bảo hiểm xã hội và thời gian làm việc đã được người sử dụng lao động chi trả trợ cấp thôi việc”.

 

Theo quy định trên thì thời gian làm việc để tính trợ cấp thôi việc của bạn là tổng thời gian bạ đã làm việc thực tế cho người sử dụng lao động (cả thời gian làm việc tại nhà máy cơ khí trước năm 1991 và thời gian làm việc tại nhà máy thép) trừ đi thời gian tham gia bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của Luật bảo hiểm xã hội và thời gian làm việc đã được người sử dụng lao động chi trả trợ cấp thôi việc. Mà Luật Bảo hiểm xã hội 2006 về TCTN có hiệu lực từ 01/01/2009 do đó, công ty có trách nhiệm chi trả trợ cấp thôi việc cho nhân viên theo thời gian họ làm việc tính đến 01/01/2009, mỗi năm làm việc được hưởng một nửa tháng tiền lương. Từ 01/01/2009 trở đi, Bảo hiểm xã hội sẽ có trách nhiệm chi trả trợ cấp thất nghiệp cho những nhân viên đó nếu bạn thỏa mãn các điều kiện hưởng.

 

Và tiền lương để tính trợ cấp thôi việc là tiền lương bình quân theo hợp đồng lao động của 06 tháng liền kề trước khi người lao động thôi việc.

 

Trên đây là nội dung tư vấn của Luật Minh Gia về vấn đề bạn yêu cầu tư vấn: Chế độ giải quyết trợ cấp thôi việc. Nếu còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ qua Email hoặc gọi điện đến bộ phận luật sư tư vấn trực tuyến - Số điện thoại liên hệ 1900.6169 để được giải đáp, hỗ trợ kịp thời.

 

Trân trọng!

CV Dương Xuân - Công ty Luật Minh Gia

Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất

0971.166.169