Bán tài sản thế chấp có phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản?
Nội dung tư vấn: Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi đề nghị tư vấn đến cho Công ty Luật Minh Gia. Về vấn đề của bạn, tại Điều 342 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định về vấn đề thế chấp tài sản như sau:
“1. Thế chấp tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên thế chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên kia (sau đây gọi là bên nhận thế chấp) và không chuyển giao tài sản đó cho bên nhận thế chấp.
Trong trường hợp thế chấp toàn bộ bất động sản, động sản có vật phụ thì vật phụ của bất động sản, động sản đó cũng thuộc tài sản thế chấp.
Trong trường hợp thế chấp một phần bất động sản, động sản có vật phụ thì vật phụ thuộc tài sản thế chấp, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác.Tài sản thế chấp cũng có thể là tài sản được hình thành trong tương lai.
2. Tài sản thế chấp do bên thế chấp giữ. Các bên có thể thỏa thuận giao cho người thứ ba giữ tài sản thế chấp.”
Như vậy, theo như nội dung bạn đã trình bày thì chúng tôi hiểu rằng bạn đang thế chấp chiếc xe ô tô tải để đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ của mình. Theo đó, tại Điều 348 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định về các nghĩa vụ của bên thế chấp tài sản:
“1. Bảo quản, giữ gìn tài sản thế chấp
2. Áp dụng các biện pháp cần thiết để khắc phục, kể cả phải ngừng việc khai thác công dụng tài sản thế chấp nếu do việc khai thác đó mà tài sản thế chấp có nguy cơ mất giá trị hoặc giảm sút giá trị;
3. Thông báo cho bên nhận thế chấp về các quyền của người thứ ba đối với tài sản thế chấp, nếu có; trong trường hợp không thông báo thì bên nhận thế chấp có quyền huỷ hợp đồng thế chấp tài sản và yêu cầu bồi thường thiệt hại hoặc duy trì hợp đồng và chấp nhận quyền của người thứ ba đối với tài sản thế chấp;
4. Không được bán, trao đổi, tặng cho tài sản thế chấp, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 349 của Bộ luật này”.
Như vậy, theo quy định tại Điều này thì bạn sẽ không được quyền bán tài sản thế chấp là chiếc xe ô tô nếu không được người nhận thế chấp là anh T đồng ý. Do đó, việc bạn vi phạm quy định tại điều này là việc vi phạm nghĩa vụ dân sự. Theo quy định tại Điều 20, nghị định 163/2006/NĐ-CP về giao dịch bảo đảm về:
"Quyền của bên nhận thế chấp trong trường hợp bên thế chấp bán, trao đổi, tặng cho tài sản thế chấp:
1.Trong trường hợp bên thế chấp bán, trao đổi, tặng cho tài sản thế chấp không phải là hàng hóa luân chuyển trong quá trình sản xuất, kinh doanh mà không có sự đồng ý của bên nhận thế chấp thì bên nhận thế chấp có quyền thu hồi tài sản thế chấp, trừ các trường hợp sau:
a)Việc mua, trao đổi tài sản được thực hiện trước thời điểm đăng ký thế chấp và bên mua, bên nhận trao đổi tài sản thế chấp ngay tình;
b) Bên mua, bên nhận trao đổi phương tiện giao thông cơ giới đã được đăng ký thế chấp, nhưng nội dung đăng ký thế chấp không mô tả chính xác số khung và số máy của phương tiện giao thông cơ giới và bên mua, bên nhận trao đổi tài sản thế chấp ngay tình.
2. Trong trường hợp bên nhận thế chấp không thực hiện quyền thu hồi tài sản thế chấp thì các khoản tiền thu được, quyền yêu cầu thanh toán hoặc tài sản khác có được từ việc mua bán, trao đổi tài sản thế chấp trở thành tài sản thế chấp thay thế cho số tài sản đã bán, trao đổi".
Về vấn đề truy cứu trách nhiệm hình sự của bạn về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (của T) sẽ chỉ được đặt ra trong trường hợp bạn đã có hành vi bán tài sản thế chấp,sau đó bạn không chịu trả nợ cho T theo như đã thỏa thuận và có hành vi trốn nợ. Tuy nhiên, như bạn trình bày sau khi bán ô tô bạn đã thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho T là 35 triệu đồng, mặc dù chưa trả hết nợ nhưng điều đó chứng minh bạn không có ý định chiếm đoạt số nợ của T.
Do đó, trường hợp của bạn sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Trong trường hợp này, bạn nên nhanh chóng trả cho T số tiền còn lại.
Trân trọng!
Liên hệ để được hỗ trợ nhanh nhất